Subscribe

RSS Feed (xml)

Powered By

Skin Design:
Free Blogger Skins

Powered by Blogger

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2009

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS - CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG VỀ NHÂN VẬT

1.1. Meursault - Con người xa lạ trong xã hội phi lí

Meursault là nhân vật chính trong tác phẩm Người xa lạ của Albert Camus, được tác giả gửi gắm ý tưởng về con người xa lạ trong xã hội phi lí.

Trước tiên, cần phải nói rằng ý tưởng về người xa lạ không phải sản phẩm của riêng Camus. Hình ảnh con người xa lạ đã được sử dụng trong Kinh Thánh để tượng trưng cho cảnh ngộ của con người nói chung. Bởi vì, khi Adam và Eva bị đuổi ra khỏi thiên đường, điều đó đồng nghĩa với việc họ phải rời xa quê hương và, kể từ đó, đã lâm vào tình trạng của người xa lạ, người di trú, kẻ tha hương.
Theo Pilon thành Alexandrie - triết gia, nhà chú giải thần học La Mã sống cùng thời với Đức Jesus - thì Adam bị đuổi ra khỏi thiên đường tức là bị kết tội đày biệt xứ. Vì vậy, mọi con cháu của Adam chỉ là những lữ khách qua đường nghỉ trọ, dù ở nơi nào cũng là người xa lạ, ngay cả trong xứ sở của mình. “Vì mỗi người trong chúng ta đã đi vào vũ trụ này như đi vào một thành phố xa lạ, trước khi ra đời đã chẳng có phần trong đó và khi đã bước vào thì là người khách qua đường nghỉ trọ cho tới khi đi hết quãng đời đã dành cho mình… Nói cho thực chặt chẽ, chỉ có Chúa trời là một cư dân” [10,676].

Mặc dù cũng truyền tải ý tưởng về người xa lạ, nhưng trong Người xa lạ, nhân vật chính Meursault không chỉ thể hiện sự xa lạ của một kẻ lưu đày như “mọi đứa con của Chúa” mà anh ta còn là người xa lạ giữa chính những người xa lạ khác - sự xa lạ của anh ta là sự xa lạ của một người bị lưu đày trong xã hội phi lí.

Tiểu thuyết Người xa lạ khắc họa chân dung nhân vật Meursault trong khoảng thời gian gần một năm kể từ khi mẹ anh ta chết cho đến gần cái chết của chính anh ta. Xã hội Meursault sống là một xã hội phi lí. Chính sự phi lí đã khiến cuộc sống của anh ta biến thành một nhà tù rộng lớn và sự giao tiếp giữa những người tù lại bị ngăn trở bởi một tấm kính cách âm trong suốt. Trong cái nhà tù vô hình đó, mỗi tù nhân sống, làm việc, yêu đương… một cách máy móc với sự ngột ngạt, u mê, dồn nén. Cuộc sống của anh ta là cuộc sống gợi nên cảm giác về cái vô nghĩa lí. Anh ta hành động máy móc, vô thức, luôn luôn bị chi phối bởi cảm giác mệt mỏi, buồn chán, đơn điệu. Anh ta hành động chỉ là để giết thời gian và do buồn chán. Khi ở công sở, anh ta làm việc; khi gặp bạn gái, anh ta trò chuyện, xem phim, tắm biển; khi có người hỏi thì anh ta trả lời… tất cả được thực hiện một cách máy móc, rập khuôn và buồn tẻ. Còn khi ở một mình, Meursault cũng thực hiện những hành động vô nghĩa: đọc một tờ báo cũ, cắt dán một bài anh ta thấy hay hay rồi tiêu tốn cả chiều chủ nhật để quan sát đường phố từ trên ban công. Sự đơn điệu đó khiến người khác có cảm giác anh ta chỉ đơn thuần tồn tại chứ không phải đang sống. Dường như anh ta chỉ hành động theo bản năng, như một con robot được lập trình.

Quả thật, trong xã hội phi lí đó, Meursault là một người xa lạ. Anh ta là kẻ xa lạ với người khác và đồng thời cũng là kẻ xa lạ đối với chính mình.
Đối với người khác, Meursault bị coi là kẻ xa lạ vì đã không tuân theo những chuẩn mực đạo đức, những qui tắc xã hội thông thường. Trong cuộc sống, anh ta luôn thể hiện một sự thờ ơ nhất định nào đó. Anh ta không hiểu thế nào là tình yêu, dù luôn cảm thấy ham muốn Marie và cảm thấy hạnh phúc bởi sự hiện diện của cô. Sự thờ ơ của anh ta nhiều lúc trở thành sự lạnh lùng đến tàn nhẫn. Đối với anh ta, tình yêu “chẳng có nghĩa lí gì” [12,288]; “mọi cuộc sống cũng đều như nhau cả thôi” [12,293].

Trong quan hệ với mẹ mình, Meursault cũng tỏ ra xa lạ: “Hẳn là tôi rất yêu mẹ, nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả” [12,309].

Nhìn ở góc độ nào đó, người ta đã có lí khi kết án Meursault là một người vô cảm. Anh ta có thể thấy thiếu vắng mẹ, nhưng không hề đau khổ. Anh ta không thăm mẹ thường xuyên tại nhà dưỡng lão, không nhìn mặt mẹ lần cuối, uống cà phê sữa và hút thuốc trước quan tài người chết, ngủ trong khi canh linh cữu, xem phim hài và hành động yêu đương chỉ một ngày sau khi mẹ mất. Anh ta đã bị kết tội giết chết mẹ về mặt tinh thần. Anh ta trở thành một kẻ xa lạ với trái tim trống rỗng trong mắt mọi người.

Quả thật, giữa Meursault và những người khác có một vách ngăn trong suốt. Không bao giờ Meursault tìm hiểu những cảm nhận của người khác. Dù cho anh ta có đôi lần băn khoăn về thái độ của mọi người đối với mình nhưng cuối cùng, anh ta vẫn cảm thấy mọi chuyện xảy ra như thế nào cũng được, nếu sự việc khác đi thì cũng có ý nghĩa gì đâu. Thế giới nhân vật xung quanh Meursault, có phải vì thế mà hầu hết toàn những người không tên, không tuổi. Họ xuất hiện trước Meursault bằng chức vụ, bằng những khuôn mặt vô hồn, bằng những dấu hiệu của sự máy móc hay sự tàn phá của thời gian. Một người phụ nữ quen mặt trong quán ăn quen thuộc mà Meursault không biết tên, một nữ y tá ở viện dưỡng lão mà anh ta không nhận ra sự có mặt dù chị ta đứng trước ngay trước mắt; những cụ già ở viện dưỡng lão mà anh ta cảm thấy như sự có mặt của họ là để phán xử anh ta, rồi cả tòa án mà anh ta thấy như mình là một tội nhân bên lề phiên xử…, tất cả những con người đó, tất cả những sự tồn tại đó, với Meursault, dường như không có ý nghĩa gì, dường như họ tồn tại ở một thế giới khác.

Đối với những con người đó, Meursault là một kẻ giết người máu lạnh, một kẻ phạm tội cả về tinh thần và thể xác. Anh ta đã giết người vì một lí do có phần vô lí: mặt trời. Chính do sự thúc ép của mặt trời mà anh ta trở nên mê muội, khiến anh ta bắn năm phát đạn vào người A Rập trên bãi biển. Anh ta bắn, và không hối hận, không cảm thấy mặc cảm tội lỗi. Anh ta không hề nhận ra mình có tội. Anh ta trở nên xa lạ cũng vì sự u mê đó.

Tuy nhiên, cho dù không phạm tội giết người, không bị xét xử tại tòa án thì Meursault cũng đã sống trong cõi bất hạnh từ trước. Anh ta bất hạnh vì đã trở thành kẻ xa lạ với chính mình. Anh ta sống một cách máy móc, u mê trong sự phi lí của xã hội và biến thành nô lệ của cuộc sống phi lí đó. Không phải chỉ giữa anh ta và người khác mới có một tấm kính vô hình ngăn cách mà ngay trong chính anh ta, ngay trong con người anh ta cũng có một tấm kính vô hình ngăn cản anh ta nhận thức về chính mình và nhận thức cuộc sống phi lí của mình. Chính điều đó đã biến anh ta thành một kẻ thụ động.

Camus từng nhận xét Meursault là con người yêu ánh mặt trời không có bóng mây che. Còn Conor Cruise O’Brien thì lại khẳng định: “Trong tiểu thuyết, Meursault nói dối. Anh ta đã thay Raymond viết bức rhư để lợi dụng và làm nhục cô gái. Sau này, anh ta lại nói dối ở sở cảnh sát để minh oan cho Raymond, người đã đánh cô gái này. Thật sai lầm khi cho rằng Meursault là người không thể lay chuyển trong sự tôn trọng tuyệt đối sự thật. Những tình tiết đó chứng tỏ anh ta thờ ơ với sự vật cũng như với sự tàn bạo như chúng ta biết” (dẫn theo [23,744]). Dĩ nhiên O’Brien có những lí do để khẳng định nhận xét đó của mình. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan tác phẩm cũng như quan sát Meursault trong sự vận động phát triển tự thân của anh ta, có thể thấy Meursault không nói dối. Nói một cách khác chính xác hơn, anh ta không hiểu thế nào là nói dối và anh ta cũng không nắm bắt được sự thật để mà khẳng định anh ta bảo vệ sự thật. Anh ta chỉ là một người thụ động, nhìn sự việc theo cái nhìn của người khác. Anh ta chấp nhận những gì người khác đưa đến cho anh ta, thậm chí cả trên lĩnh vực nhận thức, tình cảm. Trong thâm tâm, anh ta mặc nhiên chấp nhận những gì Raymond nói và coi đó như những gì xảy ra trên trực tế. Anh ta đã làm điều mà bản năng mách bảo anh ta nên làm, theo cái mà anh ta cho là sự thật; một cách hiển nhiên, vô thức, theo cái cách mà cái gì đến sẽ đến. Anh ta cũng không cao cả đến mức hi sinh vì sự thật; anh ta không hề có khái niệm nào về sự thật cũng như lừa dối, đúng cũng như sai, nên cũng như không nên. Anh ta thản nhiên tuân theo sự sắp đặt của người khác. Cuộc đời anh ta là cuộc đời một người máy được lập trình bởi cái ngẫu nhiên, bởi sự phi lí và bởi chính những người máy khác. Anh ta liên tục lặp đi lặp lại câu: Với tôi thế nào cũng được, rồi với tôi chuyện đó cũng vậy thôi; cũng như anh ta sẵn sàng tán đồng với người khác, rất dễ bị thuyết phục: “Quả đúng như thế và tôi công nhận điều anh ta nói”, “tôi thấy là quả thật”, “đúng như thế và dù sao tôi cũng muốn thế”…

Cũng chính vì thế mà anh ta dễ dàng trở thành con rối trong bàn tay số phận, gần như luôn ở trong thế bị động. Thậm chí, anh ta cũng quan sát cảnh vật, con người theo một cách hoàn toàn vô thức. Anh ta nhìn chỉ để nhìn, quan sát rất tinh nhưng không hề có một sự phân tích hay chọn lọc nào. Cảnh trí trong nhà giam, những khuôn mặt già nua, những hoạt động máy móc của người phụ nữ bên bàn ăn… Những quan sát vô thức đó càng làm cho cuộc sống của Meursault thêm ngột ngạt, khoảng không gian tự do dành cho anh ta ngày càng bị thu hẹp. Anh ta dường như sắp gục xuống trước sức nặng của những hình ảnh chồng chất đó.

Có thể có người cho rằng những phản ứng của Meursault hơi cực đoan, thái quá; rằng lẽ ra anh ta có thể làm thế này mà không làm thế kia… Nhưng anh ta là một nhân vật phi lí, là một con người xa lạ. Và, sự bình thản của Meursault trước cái chết, sự sẵn sàng đón nhận tất cả những gì xảy đến đó, dù sao đi nữa, vẫn mang những ý nghĩa tích cực nhất định. Anh ta hiểu rằng cuộc đời không đáng sống, nhưng con người vẫn phải sống hết mình. Khi không tin được vào tương lai hay những ảo mộng thường tình của con người, thì hạnh phúc chính là nằm trọn vẹn trên cõi đời hiện tại này đây. “Làm sao tách rời con người và tính chất phi lí của họ?” [2,129].

Nếu so sánh Meursault với những nhân vật phi lí của Kafka, có thể thấy các nhân vật của Kafka sống giữa cái phi lí, chịu tác động bởi cái phi lí và bất lực trong nỗ lực tìm kiếm câu trả lời cho những nhận thức về cái phi lí. Cho đến cuối cuộc đời, các nhân vật của Kafka vẫn không thể hiểu được về cái phi lí, họ hoàn toàn bị động trong cuộc sống phi lí. Trong khi đó, nhân vật của Camus, cho dù lúc đầu cũng bị động, không nhận thức được về tình trạng phi lí của mình, nhưng cuối cùng cũng đã hiểu rõ cái phi lí, hiểu rõ tình trạng của mình.

Tác phẩm Người xa lạ của Albert Camus được khởi thảo năm 1938, hoàn tất năm 1940 và xuất bản lần đầu năm 1942. Đây là tác phẩm thể hiện rất rõ nét những ảnh hưởng kí ức tuổi thơ, kinh nghiệm sống và những tư tưởng, quan niệm của Camus về cuộc đời, cuộc sống - đặc biệt là những tư tưởng của ông về sự cô đơn và cái phi lí. Cũng trong thời kì này, dưới sự tàn phá về mọi mặt của hai cuộc chiến tranh thế giới, nhận thức về cái phi lí đã ảnh hưởng sâu sắc đến cả một lớp người trong xã hội. Nhân vật Meursault của Ablert Camus - một con người xa lạ trong xã hội phi lí, một người máy với nhịp sống máy móc “sáng cắp ô đi, tối cắp về”, một con người mờ nhạt sống không mục đích, không nhận thức được ngay cả bản thân mình - đã trở thành hình ảnh đại diện cho cả một lớp người trong xã hội đó.

Cuộc sống ngày càng biến đổi, cái xã hội phi lí mà Camus cảm nhận trong thời kì sáng tác Người xa lạ cũng không còn y nguyên như cũ nữa, nhân vật người xa lạ của Camus, lẽ tất nhiên, cũng vì thế mà không còn giữ nguyên ý nghĩa biểu tượng như ban đầu nữa. Tuy nhiên, ý nghĩa đó chỉ được biến đổi, làm mới đi chứ không hề chết hẳn. Con người xa lạ dù trong thời nào thì vẫn là con người xa lạ. Và, cho đến ngày nay hay thậm chí bao lâu đi nữa, có thể nói rằng mỗi con người trong xã hội, dù ít dù nhiều, vẫn vĩnh viễn là một người xa lạ với chính mình và với cuộc đời.

1.2. Rieux - Người phản kháng bằng nỗ lực của một con người bình thường

Trong Dịch hạch, Rieux đã song hành cùng Tarrou để làm nên một cặp nhân vật không thể tách rời, vừa thể hiện tư tưởng về cái phi lí, vừa thể hiện tư tưởng về sự phản kháng của Camus và cả hai nhân vật đã được Camus sử dụng như một câu trả lời cho thái độ và con đường phản kháng của mình. Hai nhân vật tưởng như hoàn toàn khác biệt nhưng thực ra lại có nhiều nét tương đồng, và có thể coi như sự phân thân của một con người - một con người ít nhiều mang dáng dấp Camus. Cả Tarrou, cả Rieux đều là hai nhân vật thể hiện tư tưởng phản kháng, tuy nhiên họ lại phản kháng theo những cách rất khác nhau. Tarrou phản kháng bằng cách nỗ lực trở thành một vị Thánh không Chúa, còn Rieux lại phản kháng bằng nỗ lực của một con người bình thường.

Tuy chọn lựa con đường khác nhau, nhưng về căn bản, cả Rieux và Tarrou đều dựa trên một cái nền chung: sự phản kháng không dựa vào Chúa. Thái độ “chống Chúa” này cũng là thái độ của Meursault trong Người xa lạ - anh ta kịch liệt phản ứng trước những gì liên quan đến Chúa, liên tục từ chối tiếp và thậm chí chửi bới mục sư - và chính nó là “cách để tác giả thể hiện tính chất vô thần của mình trong tư tưởng” [29,74].

Đối với Camus, con người không thể trông cậy vào Chúa, vì trước tất cả những gì xảy ra với con người, Chúa chỉ một mực lặng thinh. Năm 1932, Camus và một người bạn đã cùng chứng kiến một tai nạn tại Algérie - một em bé Hồi giáo đã bị xe bus đâm phải và bị hôn mê. Camus đã chỉ tay lên trời và nói với người bạn: “Anh thấy không? Ông ta nín thinh” (Tu vois, il se tait). Sự im lặng của Chúa chính là dấu vết sự dửng dưng của Chúa và cũng là dấu hiệu cho thấy đừng trông chờ gì nữa. Tháng Bảy năm 1944, trong lá thư gửi cho anh bạn người Đức, Camus viết: “Ánh bình minh sẽ ló rạng và các anh cuối cùng sẽ chiến bại. Tôi biết rằng, vốn chẳng đoái hoài gì tới những chiến thắng ghê tởm của các anh, ông trời cũng sẽ dửng dưng khi các anh bại trận một cách xứng đáng. Ngay cả hôm nay, tôi cũng chẳng mong đợi gì ở trời.” (L’aube va poindre où vous serez enfin vaincus. Je sais que le ciel qui fut indifférent à vos atroces victoires le sera encore à votre juste défaite. Aujourd’hui encore, je n’attends rien de lui). Về sự lặng thinh của Chúa, Camus đã từ chối coi đó như một tấm gương mà con người phải noi theo khi đau khổ. Ở cuối tác phẩm Ngộ nhận (Malentendu), sau khi giết anh trai vì tưởng lầm anh ta là một khách trọ giàu có, Martha đã nói với chị dâu: “Hãy nguyện cầu Thiên Chúa của chị để Người cho chị được như gỗ đá. Đó là niềm hạnh phúc mà Chúa đã giữ riêng cho mình, là hạnh phúc đích thực duy nhất. Hãy bắt chước Chúa, hãy trở thành điếc trước những tiếng kêu gào, hãy trở thành gỗ đá khi còn kịp” (Priez votre Dieu qu’il vous fasse semblable à la pierre. C’est le bonheur qu’il prend pour lui, c’est le seul vrai bonheur. Faites comme lui, rendez-vous sourde à tous les cris, rejoignez la pierre pendant qu’il en est temps). Không chấp nhận thái độ lặng thinh đó, thay vì đứng nhìn trời và trơ như tượng đá, Camus đã chủ trương một hướng giải quyết khác: hành động. Và ông đã để bác sĩ Rieux thực hiện điều đó trong Dịch hạch: “Bởi vì trật tự của thế giới được thần chết cai quản, thế thì có lẽ là đừng tin vào Chúa nữa mà phải dùng hết sức chống lại thần chết, và đừng ngước mắt lên trời nơi Chúa một mực lặng thinh” (Puisque l’ordre du monde est réglé par la mort, peut-être vaut-il mieux pour Dieu qu’on ne croie pas en lui et qu’on lutte de toutes ses forces contre la mort, sans lever les yeux vers le ciel où il se tait).

Trong Dịch hạch, Camus đã đặt ra thế chọn lựa khi phải đối mặt với đau khổ: hoặc tôn giáo hoặc y khoa, hoặc chữa trị hoặc cam phận với căn bệnh. Trong Cahiers, Camus cũng từng nói y khoa và tôn giáo không thể hòa hợp với nhau được: “Nếu tôi tin vào Chúa, tôi sẽ không chăm sóc con người. Nếu tôi có ý định chữa trị cho con người, tôi sẽ không tin vào Chúa” (Si je croyais à Dieu, je ne soignerais pas l’homme. Si j’avais l’idée qu’on p›t guérir l’homme, je ne croirais pas à Dieu"). Chính Rieux cũng tuyên bố rằng nếu anh ta tin vào một Thiên Chúa toàn năng thì anh ta sẽ không chữa trị cho người bệnh nữa, mà thay vào đó, anh ta để mặc Chúa lo cho đám con chiên của mình. Khi Tarrou hỏi Rieux có tin vào Chúa không, anh ta đã trả lời: “Không, nhưng điều đó có nghĩa lí gì chứ? Tôi đang ở trong bóng đêm, và tôi cố gắng nhìn nó cho rõ. Đã từ lâu tôi không còn coi nó là độc đáo nữa. (…) Nhưng giờ đây, có các bệnh nhân và cần phải chữa trị cho họ. Tôi cố gắng bảo vệ họ hết sức mình, vậy thôi” (Non, mais qu’est-ce que cela veut dire? Je suis dans la nuit, et j’essaie d’y voir clair. Il y a longtemps que j’ai cessé de trouver †a original. (...) Pour le moment, il y a des maladies et il faut les guérir. (...) Je les défends comme je peux, voilà tout). Trong lá thư gửi cho Jean Grenier ngày 21 tháng Giêng năm 1948, Camus đã viết: “Điều Rieux (tôi) muốn nói, đó là phải chữa trị tất cả những gì có thể chữa trị được, trong khi chờ để biết hay để thấy. Đó chỉ là vấn đề đợi chờ và Rieux đã nói rằng ‘tôi không biết’. Tôi đã trở lại sau khi đã đi thật xa để cuối cùng phải thốt lên lời tự thú là mình không biết gì cả. Ta bắt đầu bằng việc luận bàn về cuộc diệt chủng và cuối cùng ta lại trở về với cái luân lý của những con người bình thường” (Ce que Rieux {je} veut dire, c’est qu’il faut guérir tout ce qu’on peut guérir, en attendant de savoir ou de voir. C’est une question d’attente et Rieux dit : 'Je ne sais pas'. Je suis revenu de bien loin pour arriver à cet aveu d’ignorance. On commence par discuter sur le génocide et on en revient à la morale des braves gens). Sức khỏe con người đã được đặt lên trước những tư duy về sự cứu chuộc con người.

Như vậy, giống như Camus, Rieux từ chối dựa vào Chúa. Thay vào đó, anh ta quyết định hành động. Từ chối mọi cầu viện nơi Thượng Đế, khước từ sự buông xuôi, khước từ sự phó thác cuộc đời mình cho số phận và luôn hành động để giành lấy quyền làm chủ cuộc đời mình… đó chính là điểm tiến bộ trong tư tưởng Camus. Trong xã hội phi lí này, hành động, đấu tranh, phản kháng dù rất khó khăn nhưng lại không thể thiếu. Cho dù phản kháng trong tuyệt vọng thì con người vẫn không được phép dừng lại, vẫn không khi nào ngừng hành động.

Trong Dịch hạch, Rieux là một trong hai nhân vật đầu tiên (cùng bác sĩ già Castel) nhận ra hiểm họa dịch hạch và kiên quyết hành động chống lại nó. Ban đầu, những nhà chức trách của thành phố Oran còn e ngại không dám nói đến hai từ “dịch bệnh”. Nếu như những gì đang xảy ra trong thành phố chính là triệu chứng của dịch bệnh thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc chính quyền thành phố đang đứng trước một mối nguy lớn, đe dọa có thể xảy ra hỗn loạn trên diện rộng. Và, trong khi tất cả những người khác còn đang do dự, hoang mang, e ngại thì Rieux đã mạnh mẽ khẳng định: “Điều quan trọng duy nhất là chúng ta ngăn chặn không cho nó tiêu diệt một nửa thành phố” [1;72]. Điều quan trọng nhất, chính là hành động. Dù cho có gọi nó là gì đi nữa, dịch hạch hay bệnh sốt rét, cũng không quan trọng; vấn đề cũng không phải là bi quan hay không, mà điều cần thiết là phải tiến hành ngay những biện pháp đề phòng. Niềm tin nằm trong hành động, trong công việc hàng ngày. Cái chủ yếu là làm tốt nghề nghiệp của mình.

Khác với Tarrou, Rieux là một con người không hề có một ảo tưởng hay ước vọng cao xa nào. Trong khoảng thời gian trước khi xảy ra dịch hạch, Rieux là hiện thân của sự nhân ái. Nghề bác sĩ buộc ông phải có mối dây liên hệ tình cảm với đồng loại, và trong suốt thời gian hành nghề của mình, Rieux đã phần nào đó mang dáng vẻ của một vị Thánh nơi trần thế. Ông đã đoạt lại sự sống cho bao nhiêu người, đã mang đến hạnh phúc cho bao nhiêu gia đình, đã tạo lập mái ấm cho bao nhiêu số phận. Cho dù mục đích của ông chỉ là hoàn thành tốt công việc của mình, cho dù điều ông quan tâm nhất là sức khỏe của người bệnh chứ không phải hạnh phúc hay sự cứu rỗi trong linh hồn họ, thì vô tình ông vẫn là người mang đến cho người khác hạnh phúc, tình yêu và sự yên ổn. Ông yêu vợ, yêu mẹ, ông chữa bệnh cho người nghèo mà không lấy tiền… Ông cũng từng là cứu tinh của bệnh nhân và người nhà của họ. Ông đã sống một cuộc sống bình an và hạnh phúc, là hiện thân của tình yêu và lòng nhân ái. Cho dù dịch hạch có khiến cho tâm hồn ông trở nên chai sạn, trái tim ông trở nên cứng rắn và thái độ ông có thể lạnh lùng, nhưng Rieux đã thực sự xả thân để mưu cầu sự sống cho mọi người. Ông hoàn toàn có khả năng trở thành một vị Thánh không Chúa. Nhưng Rieux đã không chọn con đường trở thành vị thánh không Chúa đó. Ông chọn làm một con người bình thường, ông tin vào hiện hữu, tin vào mỗi giây phút hiện tại của đời sống. Như Rieux đã nói với Cha Paneloux, đối với ông, cứu rỗi nhân sinh là một từ quá lớn, ông không nhìn xa như thế. Tất cả những gì ông quan tâm chú ý đến là sức khỏe. Bởi sức khỏe là hiện sinh, là đời sống, là đang sống, là vấn đề của con người; còn cứu rỗi là lý tưởng, là hi vọng, là kiếp sau, là vấn đề của Thượng đế. Khác với thầy tu, người thầy thuốc không hi vọng vào sự sống bên ngoài sự sống. Rieux biết rõ cái chết đối với con người là một án treo, không ai thoát khỏi cái kết cục đó.

Không có những lí tưởng cao xa như Tarrou, không mơ ước trở thành một thánh nhân và cũng không hoài công đi tìm thánh đức, Rieux chỉ là một con người bình thường với những hữu hạn của con người bình thường, nhưng ông đã hết mình trong sự sáng suốt của một con người bình thường đó.

Rieux là biểu tượng của con người phản kháng, một con người hiện sinh xả thân vì đồng loại. Rieux phản kháng bằng chính những hành động bình thường và bằng quan niệm chỉ làm một con người bình thường.

1.3. Tarrou - vị Thánh không Chúa xả thân vì đồng loại

Tarrou là một trí thức trẻ căm ghét xã hội, căm ghét bạo lực tư sản với những bản án tử hình đáng nguyền rủa. Sau khi nghe những lời buộc tội độc ác của cha mình đối với một bị cáo và chứng kiến tòa án kết tội tử hình kẻ này, Tarrou đã từ bỏ cuộc sống nhung lụa trong gia đình quyền quý của mình, từ bỏ con đường luật sư mà người cha phó tổng chưởng lý đã định hướng để lang thang phiêu bạt khắp nơi, dấn thân vào các cuộc chiến đấu.

Tarrou xuất hiện ở Oran không lâu trước khi dịch hạch bắt đầu tấn công thành phố này. Trong con mắt người dân ở đây, anh ta là người nhân hậu, luôn tươi cười, dường như là bạn của mọi thú vui bình thường mà không trở thành nô lệ của nó. Tarrou còn có một sự gắn bó đặc biệt với biển - người dân Oran thường gặp Tarrou trên bãi biển và anh ta cũng hay bơi lội với niềm vui thích rõ rệt. Lẽ tất nhiên, ta có thể hiểu được tâm trạng bức bối của Tarrou khi thành phố bị cách ly, người dân bị hạn chế rồi cuối cùng bị cấm mọi hoạt động vui chơi ở ngoài bãi biển. Tuy nhiên, Tarrou đã đón nhận tất cả những xáo trộn này với một sự điềm tĩnh và chủ động đáng kinh ngạc. Tarrou hoàn toàn có thể là người đứng ngoài cuộc, nhưng anh ta đã tình nguyện sát cánh cùng Rieux trong cuộc chiến chống dịch bệnh. Nhưng, trong khi Rieux toàn tâm toàn ý với tất cả những hành động của một con người bình thường, thì Tarrou lại mải miết đi tìm một vị Thánh giữa đời thường.

Tarrou đã chia sẻ với Camus sự bác bỏ quan điểm của Kitô giáo về việc tìm sự cứu rỗi nơi thế giới khác. Camus từng phát biểu: “Trước đau khổ, trước cái chết, tự nơi sâu thẳm của mình, con người đã kêu van công lý. Lịch sử Kitô giáo chỉ biết trả lời cho những phản kháng trước đau khổ này bằng cách rao giảng về một vương quốc, tiếp theo là về một đời sống vĩnh cửu nhờ đức tin. Nhưng đau khổ xói mòn hy vọng và niềm tin; rồi thì nó chỉ còn lại sự cô độc và không lời giải thích. Đám đông lao động, bị bỏ xó cho đau khổ và cái chết, là những đám đông không Chúa Trời. Bởi vậy, chỗ chúng ta là bên cạnh họ, xa rời những vị thông thái cả cổ lẫn kim. Lịch sử Kitô giáo đã dựa vào một cõi bên ngoài lịch sử để chữa lành bệnh tật và cái chết mà con người, tuy vậy, phải gánh chịu trong lịch sử” (Devant ce mal, devant la mort, l’homme au plus profond de lui-même crie justice. Le christianisme historique n’a répondu à cette protestation contre le mal que par l’annonce du royaume, puis de la vie éternelle, qui demande la foi. Mais la souffrance use l’espoir et la foi; elle reste solitaire alors et sans explication. Les foules du travail, lassées de souffrir et de mourir, sont des foules sans Dieu. Notre place dès lors est à leur côté, loin des anciens et des nouveaux docteurs. Le christianisme historique reporte au delà de l’histoire la guérison du mal et du meurtre qui sont pourtant soufferts dans l’histoire" (A. Camus, L’homme révolté, Paris, Gallimard, 1951, p. 374-375).

Thay vì dựa vào thế giới khác, Tarrou tìm sự cứu rỗi ngay nơi trần thế, ngay từ những con người bình thường. Cả cuộc đời, anh ta mãi mòn mỏi trong một hành trình dài tìm kiếm đời, tìm kiếm người và tìm kiếm chính mình. Anh ta mãi mòn mỏi trong khát vọng tìm kiếm một vị thánh, nhưng là một vị thánh không cần đến Chúa, không dựa vào Chúa. Và đối với anh ta, ai cũng đều có khả năng trở thành vị Thánh không Chúa đó. Cần phải thấy rằng, Tarrou nhìn con người với ánh mắt đặc biệt tin tưởng và hi vọng. Anh ta cho rằng con người có khả năng làm được tất cả mọi thứ. Anh ta cũng nhận thấy xét về bản chất, tất cả mọi người đều là người tốt. Chỉ có điều, những cái tốt đó không phải lúc nào cũng bộc lộ ra ngoài, mà phải cần đến tác nhân kích thích, phải cần được tạo cơ hội. Chính Tarrou, như lời thú nhận của anh ta với Rieux, mong muốn là người tạo ra các cơ hội đó. Nói cách khác, anh ta đã tự giao cho mình nhiệm vụ khai thác vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong mỗi con người, giúp cho con người trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn, lí tưởng hơn. Đó có thể coi là mục đích cuộc đời của Tarrou, và anh ta thậm chí sẵn sàng chết vì nó.

Nhân vật Tarrou phần nào có nét không thực. Anh ta cũng là một người xa lạ trong xã hội đó. Anh ta dường như tự đặt ra cho mình những qui tắc sống khác biệt. Điều duy nhất anh ta quan tâm là làm sao có được sự yên tĩnh nội tâm. Để có được sự yên tĩnh đó, anh ta sẵn sàng trả giá bằng cả mạng sống của mình mà không hề nuối tiếc. Trước dịch hạch, anh ta không chạy trốn, không đứng ngoài lề và cũng không hề chùn bước. Anh ta đứng lên thành lập tổ chức y tế tình nguyện và đã xả thân trong cuộc chiến với dịch hạch. Hành động của Tarrou là một sự cống hiến không điều kiện. Ở điểm này, anh ta đã thể hiện được quan điểm của Camus về sự rộng lượng. Đối với Camus, trong hiện tại, vấn đề là phải kết hợp hài hòa giữa phản kháng và sự rộng lượng: ""Sự rộng lượng điên cuồng này là sự rộng lượng của phản kháng, đã mang lại kịp thời sức mạnh của tình yêu thương và chối từ lập tức sự bất công. Niềm vinh dự của nó là không hề tính toán, ban phát tất cả cho cuộc sống hiện tại và cho những người anh em đang sống. Như thế cũng chính là nó đã ban phát cho con người tương lai. Sự rộng lượng đích thực dựa vào việc cống hiến tất cả cho hiện tại" (Cette folle générosité est celle de la révolte, qui donne sans tarder sa force d’amour et refuse sans délai l’injustice. Son honneur est de ne rien calculer, de tout distribuer à la vie présente et à ses frères vivants. C’est ainsi qu’elle prodigue aux hommes à venir. La vraie générosité consiste à tout donner au présent). Chính Tarrou đã sẵn sàng cống hiến tất cả và không một giây phút nào nghi ngờ sự lựa chọn của mình.

Với tất cả những gì đã thể hiện trong Dịch hạch, Tarrou hiện lên như một nhân vật tinh thần, một kiểu nhân vật lí tưởng mang tính huyền thoại. Khi đi tìm hình ảnh vị thánh không Chúa ở mọi người thì đầu tiên và trước hết, anh ta tìm vị thánh đó trong chính con người mình. Đối với Tarrou, đôi mắt nhân hậu như đôi mắt màu hạt dẻ của bà mẹ Rieux bao giờ cũng có sức mạnh lớn hơn cả dịch hạch. Chính vì thế, anh ta đề cao sức mạnh tinh thần, chủ trương thực hiện một đạo lí lớn nhất: sự cảm thông. Sự cảm thông của anh ta là sự cảm thông của một người đứng trên mọi người, sự cảm thông của một người luôn bình tĩnh, luôn thấu hiểu và luôn tự tin vào chính mình. Có phải chính vì thế mà ngay lần đầu tiên đặt chân đến Oran, Tarrou đã tỏ ra mãn nguyện một cách kì lạ trước một thành phố tự bản thân nó đã xấu xí đến thế? Cái thành phố đậm chất phi lí ấy phải chăng chính là nơi anh ta có thể thực hiện đạo lí cảm thông đó của mình. Và, phải chăng, cũng vì muốn thể hiện được sự cảm thông của mình với mọi người, với cuộc đời mà Tarrou hình thành thói quen quan sát và ghi chép. Anh ta ghi lại những sự kiện tưởng như vô cùng nhỏ nhặt, phân tích mọi việc theo cách riêng của mình. Ngay cả khi dịch bệnh bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất, Tarrou vẫn không từ bỏ thói quen đó. Dường như đó cũng chính là cách để anh ta tìm kiếm vị thánh không Chúa giữa những người dân Oran.

Tarrou cũng là một nhân vật phi lí, nhưng là một kiểu phi lí khác với Meursault. Cái phi lí của Meursault là cái phi lí của một con người thụ động trong sự máy móc, đơn điệu của cuộc đời; cái phi lí của Tarrou là cái phi lí của một con người phản kháng đấu tranh với cái trật tự kinh tởm của xã hội. Cái phi lí của Meursault bắt nguồn từ những mâu thuẫn giữa xã hội và một con người trung thực bình thường; cái phi lí của Tarrou lại bắt nguồn từ những mâu thuẫn xã hội của một vị thánh khước từ sự tồn tại của Chúa. Chính vì thế, trong khi Meursault đại diện cho sự phân li thì Tarrou là hiện thân của tập hợp; trong khi Meursault phản kháng bằng chấp nhận thì Tarrou phản kháng bằng hành động.

Trong cuộc đấu tranh với dịch hạch, Rieux sống còn Tarrou thì chết. Cái thực tế ấy như trò đùa của số phận, như sự mỉa mai của cái phi lí. Tarrou chết trong chính những ngày cuối cùng của dịch hạch, anh ta chết chính trong thời điểm của vinh quang và chiến thắng. Một cái chết phi lí như để chứng minh “vinh quang chỉ là điều dối trá”. Tarrou đã thua trong cuộc chiến đấu với cái chết và số phận. Anh ta cũng không thể đi đến cuối con đường tìm kiếm sự bình ổn và tìm kiếm vị thánh không Chúa của mình. Tarrou chưa bao giờ biết ước vọng. Với anh ta, “tất cả những gì con người có thể được trong ván bài dịch hạch và cuộc đời là tri thức và kí ức”, nhưng “phũ phàng biết bao khi chỉ sống với những cái mình biết và những cái mình nhớ lại, mà thiếu đi cái mình ước mong” [1;37]. Và có phải chính vì thế mà Tarrou đã thất bại trong khát vọng tìm kiếm sự yên ổn và thánh đức? Cái chân lí thánh đức mà anh ta vươn tới là một thứ lí tưởng nằm ngoài tầm với. Cái chết của anh ta như sự trả lời của Tarrou đối với ước nguyện muốn được làm một người bình thường.

1.4. Clamence - Kịch sĩ bị lưu đày
Clamence - nhân vật chính trong tác phẩm Sa đọa của Camus - vừa là biểu tượng cho con người hai mặt, vừa là biểu tượng cho kẻ lưu đày và sa đọa trong xã hội loài người.

Clamence được giới thiệu một cách ngắn gọn trong từ điển bách khoa trực tuyến (http://encyclopedia2.thefreedictionary.com) là kẻ “sống với điều tốt và cái xấu xa của chính mình” (living with his own good and evil). Đặc điểm nổi bật nhất ở anh ta là tính hai mặt, là sự tồn tại song song của cả bề trái và bề mặt. Ngay từ cái tên của anh ta cũng đã thể hiện điều đó. Anh ta tự giới thiệu mình là Jean-Baptiste Clamence, rồi ngay sau đó khẳng định đó không phải tên thật của mình. Nếu đó không phải tên thật thì câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao anh ta (hay Camus) lại chọn cái tên này?

Camus không giải thích về lý do ông chọn tên Jean-Baptiste Clamence để đặt cho nhân vật của mình, nhưng qua bản thân tên gọi và tác phẩm Sa đọa chúng ta có thể suy đoán được phần nào ẩn ý của ông. Jean-Baptiste là một cái tên khá phổ biến ở Pháp, được đặt theo tên của thánh John the Baptiste (hay Gioan Baotixita, Gioan Thánh Sử, Gioan Tẩy Giả). Thánh John the Baptiste vốn là giáo chủ của giáo phái Essenes - một trong ba giáo phái lớn của đạo Do Thái. John the Baptiste được cho là vị ngôn sứ duy nhất chỉ cho nhân loại thấy Đấng Cứu Thế và cũng được tôn vinh là một vị thánh can đảm dám nói lên sự thật và sẵn sàng hi sinh cho công bình và chân lí. Tuy sống rất khổ hạnh, thức ăn hàng ngày chỉ có châu chấu và mật ong rừng nhưng tinh thần John the Baptiste lại vô cùng vui tươi. Ông luôn rao giảng, kêu gọi mọi người chịu phép rửa tội tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Ông cũng chính là người đã ban phép rửa tội cho Jesus trên sông Jordan để Jesus được chính thức công nhận đã bỏ giáo phái Pharisees gia nhập giáo phái Essenes. Xét từ tác phẩm, có thể thấy hoàn toàn hợp lí khi Camus lấy tên John the Baptiste - một vị thánh với sứ mạng rửa tội cho con người và rao giảng về sự sám hối, cho rằng mọi người đều phải sám hối và ăn năn - để đặt tên cho nhân vật chính trong Sa đọa - một con người tội lỗi mong muốn sám hối và khát khao được tha tội. Tuy nhiên, điều khôi hài là mặc dù mang tên Jean Baptiste, nhưng Clamence vẫn không sao rửa được tội lỗi của mình, và thậm chí anh ta lại càng dấn sâu hơn vào sự sa đọa; không những thế, sự sám hối của anh ta thật ra cũng là một sự-sám-hối-giả-dối, vì mục đích cuối cùng của anh ta là được phán xử kẻ khác.

Trong tên Jean-Baptiste Clamence, Clamence được hiểu như một cái họ, nhưng trên thực tế, Clamence không được sử dụng để làm họ và cũng không được sử dụng làm tên. Cái Clamence đó có thể nói là sản phẩm của riêng Albert Camus. Chính vì thế, ngay từ Clamence này cũng có rất nhiều cách hiểu khác nhau, như Donat O’Donnel cho rằng “clamence” có lẽ được bắt nguồn từ “clame” - tiếng kêu. Theo cách hiểu của O’Donnel, nhân vật Clamence, cũng như thánh John the Baptiste, là một tiếng kêu trong sa mạc - cái sa mạc nơi lòng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng là sa mạc hoang vắng của lòng người. Và tiếng kêu đó là tiếng kêu yêu cầu mọi người hãy ăn năn sám hối, hãy sửa đường - con đường của cõi lòng người, đường đi vào tâm hồn - cho Chúa. Tuy nhiên, có lẽ sẽ hợp lí hơn nếu cho rằng Clamence được bắt nguồn từ “clémence” - sự khoan dung, nhân từ. Nhân vật Clamence thường tỏ ra khoan dung, nhân từ, hào hiệp nhưng thật ra đó chỉ là bộ mặt giả của anh ta mà thôi.

Nhân vật Clamence cũng được lấy cảm hứng từ một nhân vật huyền thoại khác, thần Janus. Chính Clamence đã cho rằng mình giống như thần Janus, và thú nhận: “Tôi đã sống trọn cả đời mình dưới một ngôi sao hai mặt” (J’ai vécu ma vie entière sous un double signe) [5,73].

Janus là vị thần thuộc nguồn gốc Ấn-Âu, là một trong những vị thần cổ xưa nhất của thành La Mã. Thần có hai bộ mặt quay về hai phía, tượng trưng cho hai tính cách trong một con người. Janus là vị thần của các dạng quá độ và chuyển tiếp, đánh dấu bước tiến triển từ quá khứ tới tương lai, từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ cảnh tượng này sang cảnh tượng khác, từ thế giới này sang thế giới khác, là thần của các cửa.

Thần chủ trì các cuộc khởi đầu: tháng đầu tiên trong năm là của thần, mang tên của thần, đều có nghĩa là cửa đi vào một năm, ngày đầu mỗi tháng cũng giành cho thần. Thần điều khiển mọi sự ra đời: của các thần, của vũ trụ, của loài người và mọi hành động của con người. Thần là thần canh giữ mọi cửa mà thần mở ra và đóng lại. Hai bộ mặt nhìn về hai phía có nghĩa là thần theo dõi cả những ai đi vào và những ai đi ra, coi sóc kỹ cả bên trong lẫn bên ngoài, bên phải và bên trái, phía trước và phía sau, trên cao và dưới thấp, xem xét điều phải điều trái, nên và không nên.

Trong Sa đọa, Albert Camus đã khai thác hình ảnh hai khuôn mặt của thần Janus để xây dựng nhân vật Clamence. Trong Clamence, sự hai mặt đó thể hiện trong cuộc sống với hai bề trái phải, luôn có sự tồn tại song song giữa phần sáng và phần tối trong một con người, luôn có sự lẫn lộn giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.

Clamence đã tự giới thiệu mình là Jean-Baptiste Clamence-Kịch sĩ. Có lẽ đó là từ ngắn gọn nhất để chỉ tính hai mặt trong con người và cuộc sống của anh ta. Clamence đã biến cả xã hội quanh anh ta thành một sân khấu lớn mà anh ta là nhân vật trung tâm điều khiển hoạt động của tất cả các nhân vật khác và cũng đồng thời bị điều khiển bởi chính các nhân vật khác. Giống như Meursault, anh ta cũng là một kẻ xa lạ đối với thế giới, nhưng trong khi Meursault xa lạ vì đi ngược lại những nguyên tắc, giá trị đạo đức thông thường thì Clamence lại xa lạ bởi anh ta luôn đóng kịch, luôn đeo mặt nạ. Nhưng, cũng như Meursault lúc đầu đã không nhận ra được tính phi lí trong sự tồn tại của mình, Clamence cũng đã đóng kịch một cách hồn nhiên đến mức gần như do bản năng. Anh ta tự đề ra những nguyên tắc sống và những qui ước đạo đức theo một cái chuẩn của riêng anh ta - bằng cách đó, anh ta tự tách mình ra, trở thành xa lạ trong thế giới - và tuân thủ một cách nghiêm ngặt những qui tắc đó, để trưng ra trước khán giả một hình ảnh Clamence giả dối, một Clamence đóng kịch ngay khi chỉ có một mình. Anh ta đi mai táng một viên tham tá của đoàn luật sư trong gió tuyết, vì nhận thức rõ sự có mặt của anh ta sẽ được chú ý và bình luận một cách thuận lợi cho mình. Anh ta ngả mũ chào như chào khán giả sau khi giúp một người mù băng qua đường… Anh ta đóng kịch một cách thường trực và tài tình đến độ tự khai tử con người thật của chính mình. Hay, con người thật ấy - một con người không rõ tên - chỉ tồn tại thuần túy; còn con người của kịch trường - một Jean-Baptiste Clamence nào đó mới là người sống thật sự. Clamence đóng kịch, nhưng điều đặc biệt là anh ta không phải chỉ muốn diễn cho người khác xem; cái làm anh ta quan tâm hơn cả là diễn cho mình xem.

Camus viết về một con người hai mặt, và ông cũng đồng thời viết về một kẻ lưu đày, một linh hồn sám hối. Hình ảnh kẻ lưu đày vốn rất quen thuộc trong các tác phẩm của Camus, gần như trong bất kì nhân vật nào cũng đều ít nhiều mang đặc điểm này. Trong xã hội phi lí, mỗi một con người đều đương nhiên phải chịu đựng sự lưu đày về mặt thể xác. Nhưng, bên cạnh đó, còn có sự lưu đày về mặt tinh thần. Clamence đã phải sống trong cả hai loại lưu đày đó.

Với anh ta, chuyển đến sinh sống ở Amsterdam, trước hết, chính là sự lưu đày rõ ràng về mặt thể xác. Từng yêu đến si mê độ cao và khoảng không khoáng đạt, giờ anh ta lại thích hơi ẩm bốc lên từ chốn sình lầy, mùi lá cây ngâm nước rữa thối dưới kinh và màu tang tóc xông lên từ các ghe tải. Từng sống giữa Paris hoa lệ, kinh đô ánh sáng, anh ta lại tự nguyện định cư tại một khoảng không gian nhỏ nhắn chi chít nhà cửa và sóng nước, vây bọc bởi sa mù, đất băng lạnh giá và biển cả đầm đìa hơi sương. Từng là một con người thanh lịch, hào hoa luôn được đón tiếp trong đèn hoa rực rỡ giờ lại phải đặt văn phòng tại một quán bar của dân giang hồ, thủy thủ. Từng là người ham sống và tràn trề sức sống, giờ anh ta cảm thấy bị đè nặng bởi cảm giác cái chết đang đến gần, bởi sự gian dối bao bọc xung quanh. Anh ta đã thay đổi. Ngày trước anh ta muốn được kẻ khác tôn sùng, giờ đây anh ta muốn tự hạ bệ mình, muốn được người khác phán xử, kết tội và tha thứ.

Song song với sự lưu đày về thể xác đó là sự lưu đày về tinh thần, và đây mới chính là sự lưu đày nghiệt ngã hơn cả. Clamence phải chịu sự hành hạ về tinh thần do ham muốn thống trị, so sự tôn sùng cá nhân của mình. Clamence đã từng thống trị kẻ khác và cũng từng bị kẻ khác thống trị. Khát vọng của anh ta là được thống trị tất cả: thiên nhiên, đồng loại và chính mình. Ham muốn thống trị, khát khao bắt kẻ khác phải quì gối đã khiến Clamence trở nên tàn nhẫn, thành một kẻ đê tiện. Anh ta sống với cái ta đây tuyệt đối, chỉ yêu thương duy nhất chính con người mình. Kết hợp giữa ham muốn thống trị - cái ta vị kỉ và sự đóng kịch bản năng, Clamence ngự trị bên trên kẻ khác bằng một vẻ ngoài nhún nhường, từ tốn, chinh phục kẻ khác bằng cái đạo đức giả vờ khiến chính anh ta cũng phải si mê, ngưỡng vọng. Anh ta là chúa tể của chính mình.

Chính cái ham muốn đó, sự ích kỉ đó cũng là một thứ dịch hạch trong tâm hồn, mọt thứ dịch hạch không bao giờ chết hẳn đã lưu đày con người trong chốn nhân gian. Chính vì ham muốn thống trị, vì sự tôn sùng cái tôi cá nhân của mình, Clamence dĩ nhiên trở nên dễ bị tổn thương hơn rất nhiều người khác nếu phải đối đầu với những gì động chạm đến lòng kiêu hãnh của anh ta, đến cái khao khát ngự trị trên đỉnh cao của anh ta. Chỉ một chi tiết rất nhỏ nhặt, chỉ một sự kiện tình cờ thoáng qua trong cuộc sống hàng ngày cũng có thể khiến anh ta bị giày vò, suy nghĩ; khiến anh ta bị hành hạ một cách khổ sở. Cảm thấy mình đã tỏ ra đớn hèn trước đám đông, anh ta đã suốt mấy ngày trời ngốn ngấu một niềm ân hận độc hại. Chính vì thế, dù cho có ở đỉnh cao của danh vọng, anh ta vẫn luôn phải chịu sự lưu đày trong tâm hồn. Cũng chính con người vị kỉ và khát khao được thống trị đó, khi phải đối diện với chính mình, đối diện với bề trái trong con người mình, sẽ không tránh khỏi sự dằn vặt. Chính sự ám ảnh và dằn vặt đó đã biến Clamence thành một kẻ sa đọa, càng lún sâu hơn vào cuộc sống lưu đày.

Clamence đã mất một thời gian dài trước khi hành nghề quan tòa-sám hối. Bị ám ảnh bởi cảm giác tội lỗi, bởi tính giả trá của mình, anh ta đã tìm quên trong rượu, trong đàn bà và sự sa đọa; nhưng vẫn không thể nào quên được ám ảnh phạm tội đó của mình. Cho tới khi đó, anh ta mới nhận ra cần phải trở thành quan tòa-sám hối; bởi vì chỉ khi đã sám hối con người mới có quyền là quan tòa kết án người khác. Sám hối, cũng có nghĩa là nhận ra bản chất của mình, giảm đi sự gia tăng của những lời ngợi ca gian dối của người đời và bằng cách đó, khiến mình hợp cách với cuộc đời hơn. “Vả chăng, chúng ta chẳng thể khẳng định sự vô tội của một ai, trong khi có thể khẳng định mà chẳng sợ sai lầm rằng tất cả chúng ta đều có tội” (Du reste, nous ne pouvons affirmer l’innocence de personne, tandis que nous pouvons affirmer à coup s›r la culpabilité de tous) [5,90]. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng với Clamence, khi anh ta bị phán xử, bị hạ bệ chính là khi anh ta thấy mình được giải thoát, thấy mình lại được đứng cao hơn người khác. Cũng như nghề quan tòa-sám hối của anh ta, “vì chưng bất luận quan tòa nào sớm muộn gì rồi cũng hóa thành kẻ đi sám hối, vậy thì cần phải ngược dòng mà hành nghề sám hối để có thể cuối cùng hóa thành quan tòa”. Nói cách khác, anh ta sám hối để giành được quyền kết tội người khác. Tóm lại, từ đầu đến cuối, anh ta vẫn không thể từ bỏ khát khao thống trị và chiến thắng. Tóm lại, anh ta vẫn là một kẻ hai mặt.

Như Albert Camus đã có lần nói với thư kí của mình, trong Sa đọa, ông muốn xây dựng một nhân vật của thời đại, một linh hồn sám hối của loài người. Và nhân vật Clamence đã thể hiện đúng bộ mặt của “một con người thời đại chúng ta” như mong muốn của Camus. Và anh ta còn hơn cả “người của một thời” - anh ta là nhân vật của mọi thời, một nhân vật không bao giờ cũ. Bởi vì, những gì mà anh ta truyền tải đó - tính hai mặt, sự sa đọa, cuộc sống lưu đày - không thuộc về một thời đại cụ thể nào. Chúng là một phần bản chất con người, là đặc điểm dù đậm nhạt khác nhau nhưng cá nhân nào cũng có. Clamence tự nhận mình là một kịch sĩ. Nhưng, anh ta đâu phải kịch sĩ duy nhất trong xã hội. Những người phụ nữ đã lừa dối chồng, lừa dối người yêu để lao vào vòng tay Clamence; những luật sư đáng kính phải che giấu các tình tiết bất lợi để mong chiến thắng tại tòa; những bạn tù đã nâng Clamence lên địa vị của một giáo hoàng… rồi ngay cả những con người ngày ngày tìm vui trong men rượu, mải miết đi tìm một thế giới bớt cay nghiệt hơn cuộc sống hiện thời… tất cả những người đó không phải cũng là kịch sĩ sao? Và, con người, ngay từ khi có ý thức, không phải - hoặc vô tình hoặc cố ý - đều tự trang bị cho mình một cái mặt nạ mà có khi được họ mang theo cho đến tận cuối cuộc đời sao?

Tiểu kết. Sự vận động của các nhân vật biểu tượng đã thể hiện rõ tính đa dạng và thống nhất trong tư tưởng, sáng tác của Camus

Từ Meursault đến Rieux và Tarrou, nhân vật trong tiểu thuyết của Camus đã đi từ phân li đến tập hợp, từ phản kháng cá nhân đến phản kháng cộng đồng, từ phản kháng bằng hình thức chấp nhận - thụ động đến phản kháng bằng đấu tranh - chủ động. Từ Meursault đến Rieux và Tarrou, nhân vật tiểu thuyết của Camus cũng đi từ bi quan đến chủ quan (dĩ nhiên là sự chủ quan nhuốm màu sắc bi quan; sự bi quan này là một đặc điểm chi phối toàn bộ tác phẩm của Camus).
Đến Clamence, nhân vật tiểu thuyết của Camus lại trở về với sự phân li đậm đặc. Anh ta thực sự là một nhân vật phức tạp và rất khó đoán định. Cũng là nhân vật phi lí nhưng trong khi Meursault mơ hồ thì anh ta hoàn toàn sáng suốt, trong khi Meursault lạnh lùng thì anh ta lại dấn thân, cuồng nhiệt. Anh ta luôn phải đấu tranh với chính bản thân mình một cách gay gắt, khắc nghiệt hơn nhiều so với các nhân vật trong Người xa lạ và Dịch hạch.
Như vậy, từ Meursault đến Clamence, nhân vật trong tiểu thuyết của Camus đã đi từ bị động đến chủ động, vô thức đến hoàn toàn nhận thức được về mình. Nhưng cũng từ Meursault đến Clamence, các nhân vật lại hoàn thành một vòng tròn từ bi quan đến chủ quan rồi lại trở lại bi quan, từ phân li, tập hợp rồi lại phân li. Chính sự phát triển đó dã thể hiện rõ tính phức tạp trong tư tưởng, sáng tác của Camus.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét