Subscribe

RSS Feed (xml)

Powered By

Skin Design:
Free Blogger Skins

Powered by Blogger

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2009

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS - CHƯƠNG 2: BIỂU TƯỢNG VỀ KHÔNG GIAN - THỜI GIAN

2.1. Biểu tượng về không gian

2.1.1. Không gian lưu đày
Trong ba tiểu thuyết của Camus được xét đến ở luận văn này, không gian lưu đày bao gồm không gian thành phố (tập hợp của thành phố Alger trong Người xa lạ, Oran trong Dịch hạch và Amsterdam trong Sa đọa), không gian đảo và không gian nước.

2.1.1.1. Thành phố
Thời xưa, trong văn học Hy Lạp - La Mã, hình ảnh thành phố thường được sử dụng như biểu tượng của sự ổn định và sự chở che. Theo phân tâm học hiện đại, thành thị là một trong những biểu tượng của người mẹ, với hai khuôn mặt là che chở và giới hạn.
Thành phố là một biểu tượng được Camus sử dụng nhiều lần trong các tiểu thuyết của mình. Thành phố Alger trong Người xa lạ, Oran trong Dịch hạch và Amsterdam trong Sa đọa mặc dù có những nét riêng nhất định nhưng đều truyền tải tư tưởng về nơi lưu đày, sự giam cầm. Những thành phố này chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là đại diện cho vô vàn thành phố khác trên khắp thế giới.
Nhìn chung, trong các tác phẩm của mình, Camus luôn thể hiện quan niệm về sự lưu đày nơi trần thế. Đối với ông, cõi trần vừa là vương quốc tràn ngập ánh sáng và hạnh phúc lại vừa là nơi lưu đày với sự tù túng và u tối tột độ. Chính vì thế, các thành phố được ông lấy làm bối cảnh trong các tiểu thuyết của mình hầu hết đều chuyển tải ý nghĩa lưu đày đó.
Thành phố Alger trong Người xa lạ là một không gian quẩn quanh, tù túng, đơn điệu với những công việc máy móc, nhịp sống máy móc, con người máy móc. Chính nó khiến cho nhận thức của nhân vật cũng trở nên máy móc, buồn tẻ và u mê. Không gian đó chính là không gian hiện thực của cuộc sống ngày nay. Chính nó cũng góp phần quan trọng vào sự hình thành cái phi lí của cuộc đời. Thành phố Alger ấy càng trở thành chốn lưu đày khi Meursault bị bủa vây trong cái bức bối của tòa án và sự ngột ngạt của nhà tù. Chính trong không gian đó, cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, Meursault đều không có lối thoát nào khác.
Thành phố Oran trong Dịch hạch là thành phố thuộc địa, là chốn lưu đày. Oran là một thành phố mang tính biểu tượng, mà trước hết là biểu tượng cho cái bất công, vô vọng và phi lí của cuộc đời. Khác với cảnh trí tràn đầy ánh sáng và rực rỡ sắc màu trong Người xa lạ, Oran thật sự là minh chứng cho sự bất công về mặt khí hậu. Nó là một thành phố xấu xí “vắng bóng bồ câu, cây cối, vườn tược, một thành phố không nghe thấy tiếng chim vỗ cánh hay tiếng lá cây xào xạc, tóm lại, một nơi hoàn toàn vô thưởng vô phạt” [1;11] mà mùa xuân thì ẩm ướt, mùa hè thì nóng nực, mùa thu thì tiêu điều.
Trong thành phố đó, những người dân sống trong sầu muộn, cô đơn và máy móc, sống một cách vô hồn trong thành phố vô hồn. Thành phố Oran còn là thành phố của mặt trời; mà mặt trời, như trong những tác phẩm của Camus đã chứng minh rất rõ, là nguồn gốc của cái phi nhân trong cuộc sóng. Oran hiện lên với tất cả những gì buồn chán nhất, tẻ nhạt nhất, đơn điệu nhất, vô vị nhất. Thành phố ấy như một nhà tù lạnh lùng, u ám; là một địa điểm thuận lợi cho dịch hạch xâm nhập, phát triển và tàn phá.
Thành phố Oran vốn đã mang bộ mặt lưu đày trong cuộc sống hàng ngày lại càng trở nên phi nhân hơn trong những ngày dịch hạch. Trước khi dịch hạch tràn đến, Oran đã luôn buồn tẻ, ngột ngạt và u ám. Đến khi có sự xuất hiện của dịch hạch, thì quả thật thành phố ấy đã chìm trong không khí tang thương, hoang mang và sầu thảm. “Mây mù che kín bầu trời”, “biển cũng mất đi cái màu xanh biếc và dưới bầu trời âm u, nó lóe lên những ánh bạc hoặc thép sáng chói”, “một không khí buồn đến tê tái bao phủ Oran”, “người ta cảm thấy ít nhiều bị bầu trời cầm tù” [1;48]. Trước ngày dịch hạch, Oran đã giống như một nhà tù, nhưng là một nhà tù vô hình mà người ta có thể ra hay vào bất kì lúc nào; nhưng đến khi thành phố bị cách li thì nó đã biến thành một nhà tù thật, một nhà tù mà người ta sống giữa cái chết, giữa sự hoảng sợ và hoang mang. Người ta không còn hi vọng, không còn niềm tin, không cố gắng. Những cá nhân nhỏ bé phó thác mình cho số mệnh, mặt trời và dịch hạch.
Dịch hạch đã biến Oran thành một nhà tù lớn. Con người mất ý niệm về thời gian, mất niềm tin vào chính mình. Họ không còn sống nữa, họ chỉ tồn tại theo bản năng. Quá khứ, hiện tại, tương lai đối với họ không còn ý nghĩa. Có một điều đáng chú ý là trong Dịch hạch, Camus sử dụng rất nhiều lần cụm từ “thành phố bị đóng cửa”. Oran đã thực sự trở thành một nhà tù giam hãm cả thể xác lẫn tinh thần người dân. Không chỉ bị đóng cửa, Oran còn bị bao vây bởi một hàng rào vật chất vô cùng hữu hiệu - biển. Mặt biển mênh mông ngăn cách thành phố Oran với thế giới phía bên kia đại dương. Những ngày dịch hạch, tàu bè bị cấm qua lại trên địa phận Oran, biển trở thành cái hàng rào hữu hình vây bọc, cầm tù người dân thành phố. Và cái hàng rào này còn khắc nghiệt, còn hiệu quả hơn bất kỳ cái hàng rào vật chất nào đã được dựng lên quanh Oran. Với những bức tường thành được canh gác cẩn mật - những bức tường có khóa, có vách, có lính canh ấy - người dân vẫn tìm được không cách này thì cách khác để liên lạc với thế giới bên ngoài Oran. Những bức thư vẫn bí mật được trao qua đổi lại, những hy vọng thoát khỏi cảnh giam cầm - theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - vẫn âm ỉ trong nhiều người. Nhưng, riêng với hàng rào biển - cái hàng rào không cần vách ngăn thành chắn, không cần súng ống giáo gươm ấy - lại không ai có thể vượt qua hay nuôi hy vọng vượt qua. Nó đứng đó, như sự trớ trêu của số phận, như càng làm tăng thêm cảm giác về sự cô đơn và bất lực.
Như trên đã nói, Dịch hạch được Camus thai nghén trong những năm Chiến tranh Thế giới II, và sự tù túng, ngột ngạt, hoang mang mà thành phố Oran bên bờ Địa Trung Hải phải chịu đựng cũng chính là những gì mà bao thành phố khác trên thế giới phải chịu. Hơn thế nữa, dưới đám mây chiến tranh u ám, thành phố Oran đó chính là hình ảnh thu nhỏ của thế giới.
Giống như Oran, thành phố Amsterdam trong Sa đọa cũng là thành phố biểu tượng. Nó cũng là thành phố không có chỗ cho bồ câu, là biểu tượng của chốn lưu đày. Tuy nhiên, nó không phải là thành phố trong chiến tranh như Oran, mà là một thành phố trong đời thường, một thành phố không còn phải chịu những đau thương mất mát và giam cầm thời chiến, nhưng lại phải đối mặt với tất cả mọi sa đọa và ngột ngạt trong đời sống thường nhật với con người bị lưu đày chốn nhân gian. Và, Amsterdam, với kênh ngòi chằng chịt và sương mù dày đặc như trong mê cung, cũng là biểu tượng cho con đường dẫn đến địa ngục tâm hồn.
Ở Amsterdam, khác hoàn toàn với khung cảnh Alger quen thuộc, mặt trời không chói chang, không khí không oi bức, con người không bị cầm tù trong cái không khí bức bối biến cảnh vật thành ra đậm tính phi nhân. Trong một hoàn cảnh địa lí như thế, con người không còn cần đến đêm tối để được tận hưởng cái mát mẻ, êm đềm và che chở. Amsterdam nằm trong một điều kiện khí hậu hoàn toàn khác. Nó đối lập hoàn toàn với không gian sống quen thuộc của các nhân vật ở Alger hay Oran. Nằm dưới mực nước biển, kênh ngòi chằng chịt, sương mù dày đặc, Amsterdam gợi lên một vẻ ẩm thấp thê lương, một sự mù mịt, u mê, tối tăm, cũng là một cảm giác không có lối thoát nào khác. Chính ở đây, con người lại cần đến ánh sáng để cảm giác mình được sống, cần đến mặt trời để xua đi sự u mê.
Chỉ quan sát trên phương diện tâm lí mới có thể thấy rõ nhất bi kịch của Clamence khi tự lưu đày mình trong một vùng ẩm thấp, sương mù dày đặc; một địa ngục trần gian trên phần đất chót mé của lục địa. Một kẻ say mê độ cao và ánh sáng mặt trời giờ phải sống trong một đất nước nằm dưới mực nước biển và quanh năm sương mù vây hãm. Một con người thanh lịch, hào hoa luôn được đón tiếp trong đèn hoa rực rỡ, giờ lại phải đặt văn phòng tại một quán bar của dân giang hồ, thuỷ thủ. Từng như con chim đại bàng sải cánh trên bầu trời cao rộng, giờ đây anh ta trở thành tù nhân trong nhà tù kí ức của chính mình.
Clamence vốn bị ám ảnh bởi nước, và chính vì thế, Amsterdam - một thành phố nơi người ta phải đặt mồ mả dưới mái nhà vì hầm ở đây ngập nước - càng thể hiện rõ ý nghĩa về chốn lưu đày. Jean Baptiste cũng đã nói đến những vòng tròn nước và những con người không hề thay đổi. “Hàng bao thế kỉ những người hút thuốc đã ở đó ngắm nhìn cùng cơn mưa đó rơi trên cùng con kênh đó.” Một cảm giác quẩn quanh không lối thoát, hệt như cảm giác của Meursault trong Người xa lạ khi bị cầm tù bởi nắng, mặt trời và mùa hè.

2.1.1.2. Đảo
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, đảo - nơi người ta chỉ đến được sau một chuyến đi sông biển hoặc một chuyến bay - là biểu tượng của trung tâm tinh thần và chính xác hơn, của trung tâm tinh thần nguyên thủy. Đảo là một thế giới thu nhỏ, hình ảnh của vũ trụ, trọn vẹn và hoàn chỉnh, vì nó biểu thị một giá trị nhuốm vẻ thiêng liêng cô đọng. ở đây khái niệm đảo gặp gỡ khái niệm đền và điện thờ. Nói một cách tượng trưng, đảo là chốn lựa chọn, chốn của tri thức và yên bình, giữa thế gian phàm tục, ngu tối và huyên náo. Đảo thể hiện cái tâm trinh nguyên, thiêng liêng theo định nghĩa.
Trong nhiều nền văn hóa, thiên đường chốn trần gian được cho là ở trên một hòn đảo: đảo Ceylan trong đạo Hồi, đảo Minos trong thần thoại Hy Lạp, những Bồng Đảo trong huyền thoại Trung Hoa…
Đảo cũng gợi ý niệm về nơi ẩn náu. Đi tìm đảo hoang, hoặc đảo xa lạ, hoặc đảo đầy bất ngờ, là một trong những chủ đề cơ bản của văn chương, của mơ mộng, của ước mong.
Bên cạnh đó, đảo cũng là biểu tượng cho sự cô đơn và chốn lưu đày. Những nhân vật như Robinson Crusoe của Daniel Defoe, như Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas cô đơn cùng cực trong hòn đảo của mình. Trong khi đó, đối với những nhân vật bị kết án lưu đày, có thể nhận thấy thường chỉ có hai lựa chọn được dành cho họ, hoặc bị đày ra nước ngoài và bị cấm vĩnh viễn không được trở về mảnh đất quê hương, hoặc bị đưa ra một hòn đảo xa xôi nào đó ngoài biển cả - bị tống giam vào một nhà tù khét tiếng nào đó (như nhân vật chính trong tự truyện Papillon - Người tù khổ sai của Henri Charrière) hoặc phải chịu cảnh nô lệ trong những đồn điền trên đảo (như nhân vật bác sĩ-cướp biển Blad trong tác phẩm nổi tiếng Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blad của Rafael Sabatini). Có lẽ, chính vì đặc điểm này mà trong Sa đọa, khi Clamence quyết định tự lưu đày mình, anh ta đã tìm đến với một hòn đảo, không những thế, lại là một hòn đảo nằm dưới mực nước biển - Amsterdam.
Đối với Clamence, có vẻ như Amsterdam có tất cả những gì cần phải có cho một chốn lưu đày: xa cách, u ám, buồn thảm, cô đơn, và đặc biệt là nơi dễ gợi nhắc cho anh ta về ám ảnh tội lỗi của mình. Amsterdam không phải một hòn đảo bình thường, mà nó là hòn đảo được bao quanh bởi kênh rạch, bởi sương mù, ẩm ướt. Sống trong hòn đảo đó, Clamence không thể không nhớ đến những tội lỗi của mình.
Tuy nhiên, như đã nói, Clamence là người hai mặt, một kẻ giả trá. Đảo với anh ta là chốn lưu đày, nhưng đảo với anh ta cũng lại là một vương quốc để anh ta thống trị. Trong Sa đọa, chính Clamence đã tự khẳng định anh ta thích đảo vì đảo là nơi dễ ngự trị. Và khát vọng của Clamence là được thống trị tất cả: thiên nhiên, đồng loại và chính mình. “Tóm lại, tôi muốn thống trị tất cả” (Bref, je voulais dominer en toutes choses) [5,48]; “Vậy là, tôi chỉ có thể sống ở đời (…) trong điều kiện này: trên khắp trái đất, tất cả mọi người, hay đại đa số nhân loại, đều hướng nguyện về tôi, mãi mãi không xác không hồn, không đời sống độc lập, sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi của tôi bất cứ lúc nào, tóm lại là tự nguyện làm kẻ khô cằn, cho đến ngày tôi rủ lòng chiếu cố tới họ với nguồn ánh sáng của mình” (Je ne pouvais donc vivre {…} qu'à la condition que, sur toute la terre, tous les êtres, ou le plus grand nombre possible, fussent tournés vers moi, éternellement vacants, privés de vie indépendante, prêts à répondre à mon appel à n'importe quel moment, voués enfin à la stérilité, jusqu'au jour ou je daignerais les favoriser de ma lumière) [5,91].
Như thế, cũng dễ hiểu khi Clamence chọn Amsterdam là nơi lưu đày cho mình. Giống như nghề quan tòa-sám hối của anh ta, phán xử chính mình là để được quyền xét xử người khác; việc anh ta chọn Amsterdam cũng chính là để anh ta có thể ngạo nghễ đứng trên người khác. Clamence chịu cảnh lưu đày, nhưng anh ta chờ đợi sẽ chiến thắng được cảnh lưu đày đó, để rồi biến Amsterdam từ địa ngục trần gian thành chốn thiên đường như hòn đảo Hy Lạp huy hoàng.

2.1.1.3. Nước
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, những ý nghĩa tượng trưng của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh.
Trong kinh Vệ Đà, những dòng nước mang lại sự sống, sức mạnh và sự thanh khiết về mặt tinh thần cũng như về mặt thể xác đã được dành cho rất nhiều lời ca ngợi.
Tại châu Á, nước là dạng thức thực thể của thế giới, là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính thanh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và đức hạnh.
Tuy nhiên, cũng như với mọi biểu tượng khác, có thể xem xét ý nghĩa của nước trên hai bình diện hoàn toàn đối lập: nước là nguồn sống và là nguồn chết, có chức năng tạo dựng và tiêu hủy.
Trong các tiểu thuyết của Albert Camus, biểu tượng nước được khai thác chủ yếu trong tác phẩm Sa đọa. Nhưng, đối lập hẳn với ý nghĩa về sự thanh tẩy, đức hạnh vốn quen thuộc trong văn hóa truyền thống, nước trong Sa đọa là biểu tượng cho tội lỗi, cho ám ảnh. Dòng sông Seine - không gian nước vốn thơ mộng đến thế, bình an đến thế - chính là chứng nhân tội lỗi của Clamence. Vào cái buổi tối trên cây cầu bắc ngang dòng sông Seine đó, Clamence đã lẳng lặng chứng kiến cảnh người phụ nữ rơi xuống dòng sông - không chạy lại cứu, không tri hô, không kể lại với bất kì ai. Trong khi đó, dòng nước sông Seine - thủ phạm đã cuốn đi thân xác người phụ nữ - lại cũng lặng lẽ chứng kiến con người đang câm lặng trên cây cầu kia - kẻ, bằng sự đứng ngoài lề của mình, đã đồng lõa với dòng sông. Để rồi, kể từ ngày đó, cảm giác phạm tội bám lấy Clamence, theo sát anh ta thành một ám ảnh, và cứ mỗi lần đứng trước một không gian nước nào đó (sông, biển, kênh, rạch…) cảm giác đó lại trỗi dậy, lại giày vò anh ta, nhắc cho anh ta nhớ về bề trái trong con người mình, nhắc cho con người khát khao thống trị và chiến thắng đó giây phút anh ta thất bại, giây phút anh ta hèn nhát.
Mong muốn tìm được sự giải thoát, Clamence đã tự lưu đày mình. Từ thành phố Paris hoa lệ, Clamence đã thực hiện một chuyến lưu đày về Amsterdam, xứ sở của nước và sương mù, một nơi mà người dân đặt mồ mả dưới mái nhà vì hầm ngập nước. Bi kịch của anh ta nằm ở chỗ, bình thường, nước chính là thứ vật chất giúp con người thanh tẩy cả về thể xác lẫn tinh thần, nhưng với anh ta, thứ nước rửa tội đó lại không bao giờ rửa được tội lỗi cho anh ta, vì chính nước lại tham dự vào phần tội lỗi đó, chính nước khiến anh ta không bao giờ thoát khỏi ám ảnh của mình.
Cuộc sống của nhân vật Clamence là cuộc sống bị bao phủ bởi không gian nước. Vịnh Zuydersse “mặt nước lặng lờ, buồn hiu, bất tận và nhòe lẫn với đất liền” biểu tượng cho một chậu nước thánh rửa tội mà Clamence “không bao giờ còn bước chân ra được” [35;142], hay cũng có nghĩa chẳng bao giờ rửa sạch được tội lỗi của mình. Với Clamence, nước trở thành nỗi ám ảnh, trở thành chứng nhân tội ác và vị quan tòa xét xử anh ta.
Trong tác phẩm, đôi khi nước cũng góp phần vào sự nhận thức ra tội lỗi, nhưng không phải để khoan hồng. Jean-Baptiste luôn nhớ đến tội lỗi của anh ta mỗi khi nhìn biển hay kênh đào, nhưng nước không giúp gì cho người phụ nữ kia, và nó cũng không giúp gì cho Jean-Baptiste. Nước không thay đổi được gì.

2.1.2. Không gian vương quốc
2.1.2.1. Biển
Biển là một động thái của sự sống. Tất cả đều từ biển mà ra và cuối cùng lại trở về với biển: đây là nơi của những cuộc sinh đẻ, những biến thái và tái sinh. “Là nước trong sự chuyển động, biển tượng trưng cho trạng thái quá độ giữa các khả năng còn phi hình và các thực tại đã hiện hình, cho một tình thế nước đôi, tình thế bấp bênh đầy hồ nghi, chưa quyết định và có thể kết thúc tốt hay xấu. Từ chỗ đó biển là biểu tượng vừa của sự sống, vừa của sự chết” [10,80].
Biển là một biểu tượng xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm của Camus. Biển là một phần cuộc sống của Meursault. Anh ta tìm sự bình an trong biển, hành động yêu đương trong biển và tìm tự do trong hành động đến với biển. Có thể Meursault thờ ơ và bị động trong rất nhiều trường hợp, nhưng đứng trước thiên nhiên rạng rỡ, hài hòa và tràn đầy sức sống, anh ta đã giao cảm với một sự tinh tế đặc biệt, một sự tinh tế mà đôi khi có thể thành xa lạ với nhiều người - sự tinh tế của một lòng háo sống.
Có lẽ cũng không phải vô căn cứ khi cho rằng Người xa lạ là một cuộc đấu tranh gay gắt và dai dẳng giữa biển và mặt trời. Vai trò của hai biểu tượng này đã khiến không ít người liên tưởng cái tên Meursault của nhân vật chính với cặp đôi mer-soleil - biển và mặt trời. Khi anh ta được đắm mình trong nước biển, anh ta hoàn toàn cảm thấy hài lòng, thoải mái. Nhưng khi thiếu đi sự mát mẻ, trong lành đó, anh ta hoàn toàn bị khuất phục bởi ánh mặt trời, hoàn toàn chịu sự thúc ép của mặt trời; anh ta chỉ là công cụ dưới sự điều khiển của một thế lực siêu nhiên.
Trong Dịch hạch, biển/nước biển xuất hiện 33 lần thì có đến sáu lần được sử dụng nhằm chuyển tải trực tiếp thông điệp về sự thiếu biển và khát khao tìm kiếm biển. Ngay trong lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm, hình ảnh biển đã mang đến cho độc giả một cảm giác thiếu thốn, mất mát: “Người ta chỉ có thể lấy làm tiếc rằng nó (thành phố) được xây dựng quay lưng lại với cái vịnh này và, vì thế, tiếc rằng người ta không thể nhìn thấy biển mà luôn luôn phải đi tìm kiếm.” (On peut seulement regretter qu’elle se soit construite en tournant le dos à cette baie et que, partant, il soit impossible d’apercevoir la mer qu’il faut toujours aller chercher) [6,14]. Nhưng rồi, khi dịch hạch tràn đến hoành hành thành phố bên bờ Địa Trung Hải này thì ngay cả việc tìm kiếm biển cũng trở thành nhiệm vụ bất khả thi. Biển bị cấm. Đêm đêm, tiếng sóng vẫn vỗ về bờ cát, thành phố vẫn mặn mòi mùi vị của biển cả, những ngọn gió từ ngoài khơi thổi vào trong thành phố vẫn mang theo tiếng sóng và cả tiếng tàu thuyền xa vắng, nhưng biển giờ đây không còn là biển của ngày thường, không còn là biển-trong-hành-trình-tìm-kiếm của người dân Oran nữa. Những ngày dịch hạch, biển biến thành nơi tập trung của những giàn thiêu xác chết, thành chứng nhân cho chết chóc, cho đau thương mất mát, chứng nhân cho sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh chống lại dịch bệnh. Việc tắm biển bị bãi bỏ, cơ thể con người không còn được hưởng sự hoan lạc với dòng nước nữa. Sự thiếu vắng biển đã mang rõ ràng ý nghĩa của sự thiếu vắng bình yên và tự do.
Có thể nói, trong Dịch hạch, ý nghĩa biểu tượng của biển được truyền tải rõ nét nhất trong đoạn văn miêu tả cảnh Rieux và Tarrou cùng nhau đi tắm biển vào một ngày dịch hạch đã có phần chững lại. “Nó (biển) vỗ nhẹ dưới chân những tảng đá lớn của con đập, và khi trèo lên đập, nó (biển) hiện ra trước mặt họ, dày như nhung, uyển chuyển và mượt mà như một con thú. Họ ngồi trên những tảng đá quay ra khơi. Nước biển phồng lên rồi lại chậm rãi rút xuống. Hơi thở lặng lẽ này của biển làm những ánh loang như vệt dầu hết xuất hiện rồi lại biến mất trên mặt nước. Trước mặt họ, bóng đêm trải dài vô tận. Cảm nhận được dưới ngón tay mình bề mặt lỗ chỗ của đá, Rieux thấy tràn ngập một niềm hạnh phúc kỳ lạ. Quay về phía Tarrou, ông đọc được trên nét mặt điềm tĩnh và trang nghiêm của người bạn cũng chính niềm hạnh phúc vốn không bỏ quên gì hết, kể cả tội giết người” (Elle sifflait doucement au pied des grands blocs de la jetée et, comme ils les gravissaient, elle leur apparut, épaisse comme du velours, souple et lisse comme une bête. Ils s'installèrent sur les rochers tournés vers le large. Les eaux se gonflaient et redescendaient lentement. Cette respiration calme de la mer faisait naÛtre et disparaÛtre des reflets huileux à la surface des eaux. Devant eux, la nuit était sans limites. Rieux, qui sentait sous ses doigts le visage grêlé des rochers, était plein d'un étrange bonheur. Tourné vers Tarrou, il devina, sur le visage calme et grave de son ami, ce même bonheur qui n'oubliait rien, pas même l'assassinat [6,258]).
Trái ngược hẳn với sự ngột ngạt, bức bối và cảm giác nơm nớp lo sợ ám ảnh trong thành phố suốt nhiều tháng; trái ngược hẳn với nhịp sống hối hả, cố gắng níu giữ từng giây từng phút, nỗ lực không ngừng nghỉ để chữa trị cho các bệnh nhân của Rieux và Tarrou, khoảng thời gian hiếm hoi bên biển này lại tràn ngập cảm giác lặng lẽ, chậm rãi, sâu lắng. Trước mặt cả hai không còn gì ngoài biển - một mặt biển trải dài vô tận. Sau tất cả những gì họ đã trải qua và sắp trải qua, chính trong giây phút nghỉ ngơi quý giá này, biển là sự bình yên cuối cùng, là sự khơi nguồn cho cảm giác hạnh phúc. Cả Rieux và Tarrou, trong phút giây hiện tại này, đều cùng chia sẻ một cảm xúc chung, một đồng cảm sâu xa về sự bình an, sự thanh thản và hạnh phúc. Dịch hạch vẫn còn đó, vẫn chờ đợi họ ở phía bên kia con đê chắn sóng, chờ đợi để đẩy vào tay họ những bệnh nhân tuyệt vọng; nhưng ở đây, chính họ cũng đang là hai bệnh nhân được biển xoa dịu những vết thương. Và khi cả hai ngâm mình trong làn nước biển, đắm chìm trong sự giao cảm với thiên nhiên êm ái, bình yên và mát mẻ, cuối cùng họ cũng đã thoát khỏi thành phố và dịch hạch.
Cũng chính trong những phút giây bình an này, Rieux và Tarrou đã cùng trải qua cảm giác đồng cảm, gắn bó đặc biệt, để rồi hình thành nên giữa họ một sợi dây tình bạn bền bỉ và sâu sắc. Biển đã trở thành chiếc cầu nối đưa hai con người lại gần nhau.

2.1.2.2. Thành phố Amsterdam, Paris và quần đảo Hi Lạp
Trong các tác phẩm của Camus, cuộc sống hiện tại là nơi lưu đày. Nhưng mặt khác, nó lại là vương quốc, là quê hương. Thế giới của Sa đọa cũng mang biểu tượng hai mặt như thế: vừa là nơi lưu đày, Amsterdam đồng thời là vương quốc; vừa là thành phố ẩm ướt mù sương kênh ngòi chằng chịt, Amsterdam đồng thời lại là thành phố huyễn hoặc tràn đầy ánh sáng và hoan lạc.
Hình ảnh vương quốc trong Sa đọa là tập hợp của Amsterdam, Paris và quần đảo Hi Lạp; trong đó Paris và Hi Lạp là những hình ảnh trong quá khứ, còn Amsterdam lại là hình ảnh trong mộng tưởng. Paris và Hi Lạp tồn tại trong kí ức của Clamence, nhưng trong khi thực tại với sương mù, với những mép bờ bằng phẳng xóa nhòa trong lớp phù sa, với mưa dầm và ánh tà nhạt nhòa gây cảm giác như đi trong giấc mộng thì quá khứ với Paris chói lòa ánh sáng, với những hòn đảo Hi Lạp nổi bật kéo dài theo đường chân trời lại gây ấn tượng về một sự tồn tại thực sự, sáng rõ. Trong khi Amsterdam lưu đày là biểu tượng cho thực tại sa đọa, cho tội lỗi, cho bóng tối và thất bại thì Paris, Hi Lạp lại là biểu tượng cho quá khứ đẹp đẽ, cho vinh quang, ánh sáng và thành công.
Trong Sa đọa, đảo Amsterdam hiện diện song song với đảo Hi Lạp. Khác hoàn toàn với Amsterdam, Hi Lạp là vương quốc tự do, là rạng rỡ ánh sáng, cây cối xanh tươi, không khí thanh bạch, và đặc biệt hơn cả, là nơi có thể mang đến cho Clamence “cảm giác như suốt ngày đêm nhảy vọt trên đầu những ngọn sóng ngắn mát rượi, trong một cuộc đua ngầu bọt và rộn rã tiếng cười.” (j’avais l’impression de bondir, nuit et jour, à la crête des courtes vagues fraÛches, dans une course pleine d’escume et de rires) [5,80]. Vượt trên đầu ngọn sóng, anh ta đã được trải nghiệm cảm giác thống trị. Và, kẻ từ ngày đó, “trọn cả Hi Lạp lênh đênh phiêu dạt đâu đó trong lòng tôi, bên mép bờ ký ức, không hề mệt mỏi.” (la Grèce elle-même dérive quelque part en moi, au bord de ma mémoire, inlassablement) [5,80]. Hình ảnh hòn đảo Hi Lạp lênh đênh không ngừng nghỉ trong ký ức của Clamence cũng đồng nghĩa với việc ước mơ thống trị không một lúc nào chết trong anh ta. Và chính nó cũng khiến Clamence không ngừng mơ ước về một Amsterdam vương quốc - một Amsterdam biểu tượng cho mộng ảo, cho hi vọng và cho sự kiếm tìm lối thoát, kiếm tìm sự bình an, hoan lạc và hưởng thụ.
Paris - Hi Lạp - Amsterdam: một thế giới có thật nhưng đã qua, một thế giới có thật đang tồn tại và một thế giới không thật trong hiện tại; cả ba thế giới đó cùng hiện diện, cùng chi phối cuộc đời và tâm tư Clamence, hình thành nên những mâu thuẫn gay gắt nhưng cũng lại là những sự dung hòa kì lạ trong anh ta. Vương quốc đó luôn luôn tồn tại để không một lúc nào Clamence không bị giày vò, ân hận và nuối tiếc. Nó cũng luôn tồn tại để nâng đỡ tâm hồn Clamence trong địa ngục trần gian.
Ở đây, có thể thấy rất rõ sự khác biệt giữa Camus và một nhà văn hiện sinh khác - Sartre. Sinh ra và lớn lên ở Paris trong sự yêu thương, đùm bọc của ông ngoại và bước vào thế giới sách vở ngay từ khi còn nhỏ, cuộc sống của Sartre gần như khác biệt hoàn toàn với cuộc sống của Camus - một chú bé sinh ra và lớn lên trong khu phố nghèo ở đất nước Algérie, vốn lúc này vẫn đang là thuộc địa của Pháp. Chính vì thế, trong khi Sartre có thể mạnh mẽ khẳng định con người chỉ thật sự là mình trong hành động, con người phải làm chủ bản thân mình thì Camus lại luôn bị ám ảnh bởi thiên nhiên, bởi tính hai mặt của cuộc sống đến nỗi không thể không bị chi phối bởi cảm giác bị những cái siêu nhiên, mơ hồ bủa vây. Nhưng, cũng chính vì thế mà các tác phẩm của Camus vẫn ngập tràn ánh sáng và rạng rỡ tình yêu với vùng Địa Trung Hải, các nhân vật của ông vẫn được sống trong “vương quốc”, trong khi Sartre lại nhìn tự nhiên ở cái bề thẳm sâu đen tối và trong khi nhân vật của ông phải sống trong một không gian ẩm thấp, tối tăm, một không gian lưu đày thật sự.

2.2. Biểu tượng về thời gian

2.2.1. Mùa hè - thời gian phi nhân
Theo quan niệm thông thường, mùa hè - mùa thu hoạch, mùa dồi dào năng lượng nhất trong năm - thường được cho là biểu tượng của tuổi trẻ, hạnh phúc, niềm vui, sự viên mãn. Mùa hè cũng gắn liền với cơ hội và thử thách.
Trong ba tiểu thuyết của Camus được chúng tôi nghiên cứu trong luận văn này, đã có tới hai tác phẩm lấy bối cảnh mùa hè. Có lẽ cũng không phải vô lý khi có người cho rằng Người xa lạ là cuốn tiểu thuyết về mặt trời và mùa hè. Trong tác phẩm này, mùa hè không mang ý nghĩa thời gian đơn thuần nữa, mà nó là thời gian phi nhân, là thời gian bủa vây con người trong bức bối, ngột ngạt, tù túng, bị động, u mê, phi lí.
Câu chuyện của Người xa lạ diễn ra trong khoảng thời gian một năm, nhưng chỉ ghi lại dấu ấn của mùa hè. Mặc dù Người xa lạ được chia thành hai phần rất rõ ràng, nhưng toàn bộ phần một là sự dàn trải các sự kiện mang đậm tính khách quan của biện pháp thống kê và được gói trong mười tám ngày nắng nóng khủng khiếp. Phần hai lại là sự dồn nén của thời gian và sự kiện, sự co thời gian dẫn đến những đoạn nhảy cóc trong nhận thức và sinh hoạt của Meursault, với sự chồng chéo giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Để rồi, nhân vật Meursault nhận ra, kì thực, “mùa hè đã rất mau chóng thay thế mùa hè” (L’été a très vite remplacé l’été) [18,66].
Người xa lạ được chia thành hai phần thì những sự kiện mở đầu phần một diễn ra vào một ngày hè, những sự kiện kết thúc phần một cũng diễn ra vào một ngày hè, và cuối cùng, cuốn tiểu thuyết khép lại cũng vào một ngày hè. Phần thứ nhất được bắt đầu bằng thông báo về cái chết của của mẹ Meursault và kết thúc bằng cái chết của một người A Rập không rõ tên trên bãi biển. Phần hai bắt đầu bằng những ngày đầu tiên sau khi Meursault giết người và kết thúc bằng một cái chết trong tương lai gần của chính anh ta. Toàn bộ câu chuyện dường như diễn ra trong một vòng tròn khép kín: mùa hè - mùa hè - mùa hè - mùa hè, cái chết - cái chết - cái chết - cái chết. Meursault bị bắt vì cái chết thứ hai và bị kết án bởi cái chết thứ nhất. Điều đặc biệt là tất cả các sự kiện đều mang đậm dấu ấn của mùa hè. Trong mùa hè đầu tiên, mẹ Meursault chết và anh ta giết người A Rập trên bãi biển; trong mùa hè thứ hai, các cuộc tranh cãi tại tòa đại hình diễn ra và Meursault bị kết án là kẻ xa lạ, kẻ giết người máu lạnh và buộc phải chấp nhận án tử hình. Trong mùa hè, dưới bầu trời hè, đúng như Camus đã nói trong tiểu luận Bề trái và bề mặt, “mọi sự thật đều được bộc lộ” [2,196]. Mùa hè, luôn đi kèm với mặt trời, với ánh nắng, đã phơi trần mọi bất công, phi lí trong cuộc đời, buộc con người đối diện với chính mình, với cuộc đời trần trụi của mình.

2.2.2. Đêm - thời gian giao cảm với con người
Đối với người Hy Lạp, đêm (nyx) là con gái của Hỗn mang và mẹ của Trời và Đất. Đêm còn sinh ra giấc ngủ và sự chết, những giấc mơ và những mối lo âu, tình âu yếm và sự lừa dối. Đêm hay bị kéo dài thêm theo ý các thần, họ bắt mặt trời và mặt trăng dừng lại để thực hiện tốt hơn các kỳ tích của mình.
Đêm, theo quan niệm của người Celtes về thời gian, là khởi đầu của ngày. Đêm tượng trưng cho thời gian của sự thai nghén, nảy mầm, của những mưu đồ bí mật sẽ lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật. Đêm chứa đầy tất cả các khả năng tiềm tàng của cuộc đời. Nhưng đi vào đêm tức là trở về với cái chưa xác định trong đó đầy rẫy những ác mộng và ác mộng và quái vật, những ý nghĩ đen tối. Đêm là hình ảnh của cái vô thức, trong giấc ngủ đêm, vô thức được giải phóng. Cũng như bất kỳ biểu tượng nào, đêm biểu thị tính hai mặt, mặt tăm tối, và mặt trù bị cho ban ngày, ở đó sẽ lóe ra ánh sáng của sự sống.
Đối với Camus, thiên nhiên là nguồn tài sản vô giá, là sự thôi thúc con người cởi mở lòng mình, thôi thúc họ yêu thương và khát sống. Thiên nhiên rực rỡ và dịu dàng ấy, sự huyền bí của những đêm đầy sao ấy, sự mơn trớn ngọt ngào của mùi vị đêm hè ấy đã khiến con người đối diện với chính mình và cuộc đời, cảm nhận tất cả chảy trôi của cuộc sống, để thấy rằng “mỗi giờ khắc thiếp ngủ sẽ là một giờ khắc đánh mất ở cuộc đời” [3;120]. Trong màn đêm huyền bí, con người đã nhận chân ra những sự thật cuộc đời.
Cuối tác phẩm, trong một đêm hè, Meursault đã đối diện với chính mình và với cuộc đời, cảm nhận tất cả chảy trôi của cuộc sống và nhận chân ra được những sự thật của cuộc đời. “Những mùi vị của đêm, của đất và của muối làm dịu thái dương tôi. Sự bình yên tuyệt diệu của mùa hè đang ngủ này ùa vào tôi như một đợt thủy triều. Chính lúc này đây, chính khi đêm tàn, những tiếng còi ré lên. Chúng thông báo những khởi đầu cho một thế giới sẽ mãi mãi không còn dính dáng gì đến tôi nữa. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, tôi nghĩ đến mẹ. Dường như tôi đã hiểu tại sao cho đến cuối đời, mẹ lại chọn một ‘vị hôn phu’, tại sao bà lại diễn trò làm lại cuộc đời. Nơi kia, ở nơi kia nữa, quanh cái trại dưỡng lão với những cuộc đời đang tắt dần ấy, buổi chiều giống như một đợt xả hơi sầu muộn. Khi đã quá gần kề cái chết, chắc hẳn mẹ mới cảm thấy được giải thoát khỏi cái chết này và sẵn sàng sống lại tất cả. Không ai, không một ai có quyền khóc thương mẹ. Và tôi cũng vậy, tôi cảm thấy sẵn sàng sống lại tất cả. Như thể cơn phẫn nộ ấy đã tẩy rửa cho tôi khỏi đau đớn, rút cạn mọi hi vọng, trước cái đêm ngập tràn dấu hiệu và ánh sao này, lần đầu tiên tôi mở lòng đón nhận sự dửng dưng dịu dàng của thế giới.” (Des odeurs de nuit de terre et de sel rafraÛchissaient mes tempes. La merveilleuse paix de cet été endormi entrait en moi comme une marée. À ce moment, et à la limite de la nuit, des sirènes ont hurlé. Elles annon†aient des départs pour un monde qui maintenant m'était à jamais indifférent. Pour la première fois depuis bien longtemps, j'ai pensé à maman. Il m'a semblé que je comprenais pourquoi à la fin d'une vie elle avait pris un “fiancé”, pourquoi elle avait joué à recommencer. Là-bas, là-bas aussi, autour de cet asitle où des vies s'éteignaient, le soir était comme une trêve mélancolique. Si près de la mort, maman devait s'y sentir libérée et prête à tout revivre. Personne, personne n'avait le droit de pleurer sur elle. Et moi aussi, je me suis senti prêt à tout revivre. Comme si cette grande colère m'avait purgé du mal, vidé d'espoir, devant cette nuit chargée de signes et d'étoiles, je m'ouvrais pour la première fois à la tendre indifférence du monde) [55].
Rốt cuộc, Meursault đã thấu hiểu. Anh ta đã đến được với sự thật, và, cùng lúc đó, đến được với hạnh phúc. Cuộc đời anh ta vẫn là cuộc đời phi lí, nhưng anh ta đã thấu hiểu được cái phi lí đó và sẵn sàng chấp nhận nó. Anh ta không còn thụ động, không còn là con rối trong bàn tay số phận nữa. Anh ta đã được tự do, đã được giải thoát khỏi vòng vây của mặt trời, của ánh nắng, của mùa hè và cả của cuộc sống đơn điệu, phi lí xung quanh. Anh ta trở nên hoàn toàn sáng suốt, cảm thấy đã có được hạnh phúc và vẫn còn đang được hạnh phúc. Cái chết không còn đáng sợ nữa, sự phi lí không còn đáng sợ nữa.

Tiểu kết. Tính nước đôi của các biểu tượng và dấu ấn cá nhân của Albert Camus
Ngay từ thời thơ ấu, Camus đã có ý thức phân chia cuộc sống thành hai bề trái - phải. Trong tư tưởng của ông, cả hai bề đối lập đó đều cùng tồn tại, tác động qua lại lẫn nhau. Các biểu tượng mà ông sử dụng, cả về không gian lẫn thời gian, đều tồn tại với hai mặt đối lập, vừa tác động tích cực, vừa tác động tiêu cực đến cuộc sống và nhận thức của nhân vật.
Có khi, tính nước đôi thể hiện trong các tác phẩm riêng biệt, như biển, trong Người xa lạ và Dịch hạch là biểu tượng cho sự bình an và giao cảm, nhưng trong Sa đọa, biển cả bao la nhưng buồn hiu, bất tận và nhàn nhạt một màu là nỗi ám ảnh, là chứng nhân tội ác và quan tòa xét xử. Cũng có khi, ngay trong một tác phẩm, một biểu tượng đã mang tính nước đôi, như trong Sa đọa, thành phố và đảo vừa biểu tượng cho không gian lưu đày, vừa biểu tượng cho không gian vương quốc.
Mỗi biểu tượng được Camus sử dụng cũng đều mang đậm dấu ấn cá nhân của ông. Dấu ấn đó không chỉ thể hiện trong tính nước đôi mà còn thể hiện trong sự mới mẻ về ý nghĩa của các biểu tượng. Những biểu tượng như thành phố, như đảo, như biển đều là những biểu tượng quen thuộc trong văn học nghệ thuật, nhưng Camus lại khai thác các biểu tượng đó ở cả hai mặt đối lập và để cho các ý nghĩa đối lập này cùng thể hiện trong tác phẩm của mình. Đặc biệt, với không gian nước, ông đã gán cho một biểu tượng vốn rất quen thuộc trong đời sống những nét ý nghĩa trái ngược hẳn với quan niệm phổ biến.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét