Subscribe

RSS Feed (xml)

Powered By

Skin Design:
Free Blogger Skins

Powered by Blogger

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2009

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


KHÓA LUẬN:
BỀ TRÁI VÀ BỀ MẶT TRONG CÁC NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS


LUẬN VĂN
BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS



THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (BỀ TRÁI VÀ BỀ MẶT TRONG CÁC NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS)

PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: MEURSAULT - NHÂN VẬT PHI LÝ
CHƯƠNG 2: RIEUX VÀ TARROU - NHỮNG NHÂN VẬT PHẢN KHÁNG VÀ TẬP HỢP
CHƯƠNG 3: CLAMENCE - NHÂN VẬT SÁM HỐI
KẾT LUẬN: CAMUS VẪN SỐNG


Sách tiếng Việt
* Tác phẩm
1. Camus A., Con người phản kháng (Bùi Giáng dịch), Vô Tanh xuất bản, Sài Gòn, 1968.
2. Camus A., Dịch hạch (Nguyễn Trọng Định dịch), Nxb Văn học, 2003.
3. Camus A., Giao cảm- Bề trái và bề mặt (Trần Thiện Đạo dịch), Nxb Văn hoá Thông tin, 2004.
4. Camus A., Nơi lưu đày và vương quốc, Nxb Hội nhà văn, H, 1992.
5. Camus A., Sa đoạ (Trần Thiện Đạo dịch), Nxb Hội nhà văn, 1995.
6. Camus A., Sứ mệnh văn nghệ hiện đại (Trần Phong Giao dịch), An Tiêm xuất bản, 1974.
7. Camus A., Gide.A, Heidegger.M, Sương tỳ hải (Bùi Giáng dịch), Phú Vang xuất bản, 1966.
* Sách nghiên cứu, từ điển
8. Ân (Lại Nguyên) (BS), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
9. Dân (Nguyễn Văn) (tuyển chọn và giới thiệu), Văn học phi lí, Nxb Văn hoá Thông tin, H., 2002.
10. Đào (Đặng Anh), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
11. Giáng (Bùi), M.Heideger và tư tưởng hiện đại, Nxb Văn học, 2001.
12. Hiểu (Đỗ Đức), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, Nxb Văn học, 1978.
13. Hinh (Trần), Tiểu thuyết A.Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
14. Maurice, Nadie, Tiểu thuyết Pháp từ thế chiến thứ 2, Nxb Văn học, 2002.
15. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XX, Nxb Thế giới, H, 1994.
16. Nhiều tác giả, Một cõi Trịnh Công Sơn, Nxb Thuận Hoá, Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2004.
17. Nhiều tác giả, Văn học phương Tây, Nxb Giáo dục, 2001.
18. Nhiều tác giả, Về một dòng văn chương, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
19. Samuel, E.S, Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb Lao động, H, 2004.
20. Thái (Nguyễn Anh) (CB), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục, 1998.
21. Tửu (Phùng Văn), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, 2002.

Luận văn tiếng Việt.
22. Hương (Nguyễn Sông), Cảnh vật trong Người xa lạ (L’Etranger) của Albert Camus, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, ĐHKHXH & NV, H., 2000.
23. Thuỷ (Hoàng Thanh), Cái xa lạ trong Sa đoạ (La Chute) của A.Camus, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, H., 2004.

Sách tiếng Pháp
24. Fitch, Brian T., L’Étranger d’Albert Camus - un texte, ses lecteurs et leur lectures, Larousse, 1972.
25. Gaillard Pol, La Peste de Camus, Hatier, 1972.
26. Lagarde et Michard, XXe siecle: Les grands auteurs Francais, Bosdas, Paris, 1988.
27. Lupée, Robert De, Albert Camus, Editions Universitaires, Paris, 1984.
28. Nhiều tác giả, Lalittérature Francais de A à Z, Hatier, Paris, 1998.

Website tiếng Pháp
29. http://camus.free.fr
30. http://perso.wanadoo.fr/yjohori/courlachute.html
31. http://opus-all.paris.infm.fr/t/t/tl-camus/camusfrm.htm
32. http://Scholien.com
33. www.ac-reunion.fr/pedagogie/lystella/recueil/lapeste.htm
34. www.alalettre.com/camus-intro.htm

Tài liệu tiếng Anh
35. Camus A., The Ousider, Everyman’s Librery, London, 1998.
36. Lottman, Herbert.R, Albert Camus, a biography, Doubleay& Company, Inc, NewYork, 1979.

CAMUS VẪN SỐNG (BỀ TRÁI VÀ BỀ MẶT TRONG CÁC NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS - KẾT LUẬN)

PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: MEURSAULT - NHÂN VẬT PHI LÝ
CHƯƠNG 2: RIEUX VÀ TARROU - NHỮNG NHÂN VẬT PHẢN KHÁNG VÀ TẬP HỢP
CHƯƠNG 3: CLAMENCE - NHÂN VẬT SÁM HỐI
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Camus là nhà văn khởi nghiệp từ khi còn trẻ, và cái chết phi lí đã buộc ông phải từ giã nơi lưu đày và vương quốc khi đang trong thời kì sáng tác sung mãn, khiến ông không thể hoàn thành rất nhiều những công việc còn đang dang dở. Trong 47 năm tuổi đời và 27 năm tuổi nghề; Camus chỉ sáng tác năm tiểu thuyết: Cái chết hạnh phúc; Người xa lạ; Dịch hạch; Sa đoạ; Người đàn ông đầu tiên; trong số đó Cái chết hạnh phúc - tác phẩm duy nhất Camus gọi là tiểu thuyết là tác phẩm đầu tay nhưng lại chưa hoàn thành; còn tác phẩm Người đàn ông đầu tiên chỉ được xuất bản 24 năm sau khi ông mất. Cái chết hạnh phúc - như trong chuyên luận Tiểu thuyết A.Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX, tác giả Trần Hinh đã chỉ ra rất rõ, là anh em sinh đôi của Người xa lạ. Người đàn ông đầu tiên lại là tác phẩm mang đậm tính tự truyện; nhưng nếu Sa đoạ là tự truyện của nhân vật thì Người đàn ông đầu tiên lại có thể được coi như một tự truyện của chính tác giả. Nhân vật chính Jacques Cormery được sinh ra vào một buổi tối mùa thu 1913 trong một ngôi làng nhỏ gần Alger. Cậu bé cũng có một người cha bị tử thương trong chiến tranh vào tháng 11 năm 1914. Năm 14 tuổi, cậu bé Jacques rời nhà đi Saint-Brieuc, bắt đầu cuộc hành trình đi tìm cha. Trong cuốn tiểu thuyết tự truyện này, Camus đã dựng lại gần như toàn bộ những tư tưởng đạo đức và triết học của ông (dưới hình thức là những tư tưởng của người cha). Cũng trong tác phẩm này, Camus đã làm sống lại tuổi thơ nghèo khổ mà cũng giàu có và hạnh phúc của chính mình; làm sống lại những tháng ngày sống cùng người bà nghiêm khắc, người mẹ luôn nhẫn nhục và im lặng mà cậu bé Jacques (hay chính Camus) đã yêu với một tình yêu thương sâu sắc nhưng câm lặng. Ông cũng làm sống lại những tháng ngày ấu thơ tràn ngập hạnh phúc nhờ vào những niềm vui thích giản dị xuất phát từ sự gắn bó với mặt trời, với biển, bóng đá và bạn bè.


Điểm đặc biệt là, không giống những tự truyện khác như Những chữ (Sartre) hay Thời thơ ấu (Sarraute) được viết theo trật tự thời gian tuyến tính; Người đàn ông đầu tiên là một hành trình quay ngược trở lại tuổi thơ của nhân vật chính, với sự xen kẽ giữa cuộc đi tìm cha và kí ức tuổi thơ của mình. Người đàn ông đầu tiên, thật sự có thể soi tỏ rất nhiều những tiểu thuyết trước của Camus, cả về mặt tư tưởng và nhân vật.


Tuy nhiên, do nhiều lí do, chúng tôi không thể khảo sát tác phẩm này (cũng như tiểu thuyết Cái chết hạnh phúc) mà chỉ tập trung phân tích bốn nhân vật trong ba tiểu thuyết Camus - ba tác phẩm chính và cũng được nhiều người biết đến nhất; và ở góc độ nào đó, có thể được coi như đã gói gọn toàn bộ sự nghiệp tiểu thuyết Camus.


Qua những phân tích đó, chúng tôi rút ra một số nhận xét:


1. Từ Meursault đến Clamence, nhân vật tiểu thuyết Camus đã thể hiện rõ sự đa dạng và thống nhất trong tư tưởng nhà văn.


Người xa lạ đã được Camus xếp vào trong hệ thống những tác phẩm viết về cái phi lí, còn Dịch hạch lại nằm trong hệ thống tác phẩm viết về sự phản kháng. Ngay từ khi viết Người xa lạ Camus đã có những ý tưởng cho Dịch hạch; hay nói cách khác, ông đã đồng thời xây dựng ý tưởng cho cả hai hệ thống tác phẩm. Nhân vật tiểu thuyết Camus, vì thế, vừa mang tính phi lí lại vừa thể hiện sự phản kháng.


Tuy nhiên, ở Người xa lạ, Camus nhấn mạnh tính phi lí trong nhân vật Meursault; còn ở Dịch hạch, ông chủ yếu làm nổi bật sự phản kháng của hai nhân vật chính. Từ Meursault đến Rieux và Tarrou, nhân vật tiểu thuyết đã đi từ phân li đến tập hợp; từ phản kháng cá nhân đến phản kháng cộng đồng; từ phản kháng bằng hình thức chấp nhận - thụ động đến phản kháng bằng đấu tranh - chủ động. Từ Meursault đến Rieux và Tarrou, nhân vật tiểu thuyết Camus cũng đi từ bi quan đến chủ quan (dĩ nhiên là sự chủ quan nhuốm màu sắc bi quan; sự bi quan này là một đặc điểm chi phối toàn bộ tác phẩm Camus). Tuy nhiên, trong khi giữa Meursault và Tarrou có nhiều nét tương đồng (do cùng là nhân vật phi lí) thì Meursault và Rieux lại rất khác nhau. Cho dù Rieux cũng là một nhân vật truyền tải những tư tưởng về cái phi lí của Camus, nhưng Rieux, đồng thời, lại là đại biểu mang tính thuyết phục cao nhất cho tư tưởng Camus về phản kháng và tập hợp. Vì thế, nếu coi Meursault là một nhân vật phi lí - phân li thì Tarrou có thể gọi là nhân vật phi lí - tập hợp, còn Rieux là nhân vật phản kháng - tập hợp.

Đến Clamence, nhân vật tiểu thuyết Camus lại trở về với sự phân li đậm đặc. Clamence có thể được coi là nhân vật hiện sinh - phân li; và đồng thời, nhân vật này cũng là một nhân vật bi quan. Clamence thật sự là một nhân vật phức tạp và rất khó đoán định. Ở anh ta, bề trái và bề mặt, xấu và tốt, bóng tối và ánh sáng, lưu đày và vương quốc... gắn bó một cách vô cùng khăng khít. Nhưng, nếu ở Meursault, bề trái và bề mặt ấy gần như cân bằng; nếu ở Rieux và Tarrou bề mặt được khẳng định mạnh mẽ (nhân vật càng chịu đựng những bề trái của hoàn cảnh sống thì lại càng thể hiện rõ bề mặt trong tính cách và hành động) thì với Clamence, bề trái rõ ràng đã lấn át bề phải (cả về hoàn cảnh sống, tính cách, hoạt động, nhận thức). Cũng là nhân vật phi lí nhưng trong khi Meursault thụ động thì anh ta lại hoàn toàn chủ động, Meursault mơ hồ thì anh ta hoàn toàn sáng suốt, Meursault lạnh lùng thì anh ta lại càng dấn thân, cuồng nhiệt. Anh ta là một nhân vật hai mặt, một con người mang mặt nạ, một kịch sĩ giữa đời thường. Anh ta không lúc nào có được sự thanh thản. Anh ta luôn phải đấu tranh với chính mình (các nhân vật tiểu thuyết trước của Camus không hề có những đấu tranh gay gắt như thế).


Như vậy, từ Meursault đến Clamence, nhân vật tiểu thuyết Camus đã đi từ bị động đến chủ động, vô thức đến hoàn toàn nhận thức được về mình. Nhưng cũng từ Meursault đến Clamence, nhân vật tiểu thuyết Camus lại hoàn thành một vòng tròn từ bi quan đến chủ quan rồi lại trở lại bi quan, từ phân li, tập hợp rồi lại phân li. Chính sự phát triển đó đã thể hiện rõ tính phức tạp trong tư tưởng, sáng tác Camus.


2. Sự vận động của nhân vật tiểu thuyết Camus đã thể hiện những mâu thuẫn và chuyển biến trong cuộc đời và nhận thức của nhà văn.


Người xa lạ được khởi thảo năm 1938, hoàn tất năm 1940 và xuất bản lần đầu năm 1942; Dịch hạch được bắt đầu viết vào năm 1941 và xuất bản lần đầu năm 1947; còn Sa đoạ thật sự chỉ được Camus bắt tay vào sáng tác cuối năm 1955 và được xuất bản lần đầu năm 1956.


Nhìn vào các mốc trên, có thể thấy hai tác phẩm Người xa lạDịch hạch đã được Camus suy ngẫm ý tưởng từ lâu và cũng được viết trong một thời gian dài. Camus viết Người xa lạ năm 1938, nhưng Cái chết hạnh phúc - người anh em sinh đôi với nó - thì lại được Camus bắt tay vào viết từ 1936. Trong nghiên cứu của mình, tác giả Trần Hinh cũng chỉ ra rất rõ tính liên-văn bản trong cốt truyện Người xa lạ thể hiện qua các sáng tác từ 1934 đến 1940 của Camus. Dù ít dù nhiều, Người xa lạ đã chịu ảnh hưởng của những kí ức tuổi thơ, những kinh nghiệm sống và những tư tưởng, quan niệm của Camus về cuộc đời, cuộc sống. Xóm nghèo Belcourt, thành phố Alger, không khí oi bức, cái nắng như thiêu như đốt, biển cả, đêm tối, sự mát mẻ .v.v. tất cả những cái đó đều có sự gắn bó đặc biệt với cậu bé Camus. Chủ đề nghèo khổ và cô đơn, cái phi lí, cái nhìn sự vật ở bề trái và bề mặt đã tồn tại trong nhận thức Camus từ khi ông còn là một đứa trẻ; khi ông sống trong trọn vẹn cô đơn và hạnh phúc, nghèo khổ và giàu có; khi ông cảm nhận được tất cả giao hòa với thiên nhiên và cuộc sống.


Cho đến khi viết Dịch hạch, thế giới phi lí đó vẫn tồn tại, những kí ức tuổi thơ đó vẫn hằn dấu, nhưng trong tư tưởng và cuộc đời Camus đã có những biến đổi. Trong sáu năm kể từ khi dự định cho đến khi kết thúc Dịch hạch, cuộc sống Camus đã có nhiều biến động, ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến quá trình hoàn thành tác phẩm.


Camus đã bắt đầu viết Dịch hạch trong thời gian sống ở Oran, thành phố dịch hạch trong tiểu thuyết. Ông đã tham khảo nhiều tài liệu về các nạn dịch lớn xảy ra gần thời gian đó và cũng tham khảo nhiều tác phẩm văn học, đặc biệt là Cá voi trắng (Melville), một biểu tượng cho cuộc chiến chống lại cái ác - cũng là một sự phản kháng chống lại dịch hạch mà Camus muốn thể hiện trong tác phẩm của mình.


Trong suốt thời gian viết Dịch hạch, Camus đã thấu hiểu sâu sắc những dịch hạch mang tính biểu tượng: chiến tranh, chủ nghĩa phát xít, sự kì thị chủng tộc... cũng như những hậu quả mà nó gây ra: nỗi đau, sự chia li... Camus đã tận mắt chứng kiến những người bạn của mình phải chịu sự khủng bố của nạn kì thị chủng tộc, ông đã thật sự thấu hiểu sự cô đơn, hoang mang và bất hạnh của những người dân Do Thái (không phải đến khi Đức chiếm đóng thành phố mà từ trước đó, sự kì thị đối với những người Do Thái đã tồn tại trong Oran). Cũng vào thời kì sống ở Oran này, việc dạy học đã khiến Camus không có thời gian ra ngoài hay đi du lịch, ngay cả đến việc đọc một quyển sách cũng rất khó khăn. Đối với ông, mỗi ngày đều dài dằng dặc và nặng nề; ông cũng thật sự cảm thấy rất cô đơn. Sau đó, ông lại bị bệnh lao hành hạ. Vừa chịu nỗi đau thể xác, Camus vừa phải chịu đựng những đau đớn về mặt tinh thần, khi chiến tranh buộc ông phải xa cách gia đình. Cô đơn, không tiền bạc, đối diện với mùa đông đang đến gần và đứng trước sự chiếm đóng và tàn sát của quân phát xít, Camus đã thực sự trở thành một tù nhân trong thành phố dịch hạch.


Nhưng, lần này, thái độ của Camus đối với cái phi lí đã khác với khi ông sáng tác Người xa lạ. Bận rộn với công việc và đấu tranh; gia nhập phong trào kháng chiến và làm báo; văn chương Camus đã dần dần từ bỏ đề tài cô đơn để đến với tinh thần đoàn kết. Dịch hạch của Camus đã trở thành biểu tượng cho cuộc đấu tranh chống lại cái ác, biểu tượng cho sự phản kháng tích cực của con người.


Nhưng, sự lạc quan đó của Camus, tinh thần phản kháng tích cực đó không còn tồn tại trong tác phẩm tiếp theo - Sa đọa. Bắt đầu viết vào cuối 1955 và kết thúc (hoặc gần như kết thúc) vào đầu tháng 1 năm 1956, Sa đọa là biểu tượng cho sự lưu đày (l’exil), là một tác phẩm viết về lưu đày.
Sự bi quan và thái độ im lặng của Camus trong thời gian này là một điều dễ hiểu. Ông đã không ngừng bị giày vò bởi cuộc chiến Algérie - cuộc chiến đã giết hại biết bao người ở mảnh đất mà nhà văn đam mê gắn bó. Ngay sau Chiến tranh thế giới II và đặc biệt kể từ tháng 8 năm 1954 khi Mặt trận dân tộc giải phóng Algérie được thành lập, cuộc đấu tranh của nhân dân Algérie đã phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Nhưng thực dân Pháp cũng đã điều động máy bay, xe tăng và pháo binh đến càn quét, đàn áp cuộc khởi nghĩa vũ trang. Thành phố Alger, vùng đất trời Địa Trung Hải gắn bó với Camus như một phần cơ thể đã bị tắm trong máu, đạn. Cuộc sống thật sự là chốn lưu đày.


Camus đã từng nói với Marie Casares, thư kí của mình, rằng Sa đọa không phải là một bản thú tội, mà là “linh hồn thời đại, dù là linh hồn sám hối của thời đại”. Sa đoạ không phải một bản thú tội, cũng có nghĩa nó không phải là lời sám hối của Albert Camus, dù chính nhà văn (theo lời thư kí của ông), đã từng chứng kiến một vụ tự tử trên cầu Nghệ Thuật mà ông cảm thấy hối hận vì đã không cứu nạn nhân. Sa đoạ mang ý nghĩa sâu sắc hơn là một bản thú tội của tác giả. Nó là biểu tượng cho sự lưu đày, là sự truyền tải những tư tưởng của Camus về sự lưu đày, vốn đã hình thành từ lâu trong nhận thức Camus khi ông phân chia thế giới thành hai bề trái - phải. Nhưng, dù sao đi nữa Sa đoạ thể hiện sự bi quan chứ không phải là tuyệt vọng; và nhân vật Clamence đã thể hiện sự tích cực qua hành động phản kháng bằng sự lưu đày và phản kháng chống lại chính sự lưu đày đó.


3. Việc phân tích nhân tích giúp chúng tôi có thể đưa ra một vài đặc điểm phong cách nghệ thuật của nhà văn


- Tính đa dạng và thống nhất:


Từ Người xa lạ đến Sa đoạ, Camus chỉ viết vẻn vẹn có ba tiểu thuyết trong vòng 18 năm; nhưng mỗi tác phẩm “mang một phong cách khác nhau” (dẫn theo [13;141]).


Tuy nhiên, tính đa dạng trong ba tiểu thuyết lại nằm trong sự thống nhất phong cách của Camus. Dù đậm dù nhạt, cả ba tiểu thuyết đều thể hiện hai yếu tố phân li và phản kháng, “mà ông cho rằng đó là con đường từ khám phá hiện thực đến sáng tạo nghệ thuật” [13;139]. Cả ba tiểu thuyết đều có đầy đủ những yếu tố nước đôi (vốn đã góp phần hình thành bề trái và bề mặt trong nhân vật), tính truyền thống và biểu tượng, sự gắn bó với thiên nhiên.


Sự thống nhất trong đa dạng hay sự đa dạng thống nhất đó chính là một nét độc đáo của tiểu thuyết Camus, phong cách Camus.


- Tính cổ điển và cách tân


Quả thật, trong thế giới của Joyce, Proust, Faulkner... sự giản dị trong các sáng tác của Camus thật sự là một điều xa lạ. Camus “đã tìm sự mới mẻ riêng của mình bằng cách kế thừa truyền thống văn chương tư tưởng Pháp” [13;134]. Các tiểu thuyết của ông có cốt truyện rõ ràng, lối kể chuyện ngắn gọn, cô đúc. Có thể nói, nhìn bề ngoài, lối viết tiểu thuyết của Camus rất cổ điển, không có sự vi phạm các yếu tố truyền thống như cốt truyện, nhân vật, từ ngữ, cấu trúc câu... Nhưng thật sự, trong các tác phẩm đó, có một sự cách tân rất lớn.


Ngay tính nước đôi trong thể loại đã thể hiện một sự phản-tiểu thuyết. Sự xa lạ của nhân vật qua cách kể từ ngôi thứ nhất, kiểu nhân vật kép với điểm nhìn di chuyển, tính nước đôi trong phương thức kể chuyện... không phải đã chỉ ra những nét hiện đại trong nghệ thuật tiểu thuyết Camus? Chối bỏ trò chơi kĩ thuật, đứng ngoài lề của cuộc đảo chính hòng lật đổ những quan niệm tiểu thuyết truyền thống bằng cách giết chết nhân vật, huỷ diệt thời gian... Camus không phải không cố gắng làm mới tiểu thuyết. Chỉ có điều, ông làm mới dựa trên sự tiếp thu và phát triển cái truyền thống.


- Tính nước đôi


Ngay từ thời thơ ấu, Camus đã có ý thức phân chia cuộc sống thành hai bề trái - phải. Trong tư tưởng của ông, cả hai bề đối lập đó đều cùng tồn tại, tác động qua lại lẫn nhau. Con người cũng chỉ có thể tận hưởng trọn vẹn những cảm xúc mà bề phải mang lại sau khi đã nhận thức được bề trái của sự vật. Trong suốt quá trình sáng tác và đặc biệt qua các nhân vật tiểu thuyết, Camus đã luôn thể hiện cái nhìn cuộc đời, cuộc sống dựa trên hai dấu hiệu đối lập đó. Chính nó đã ảnh hưởng đến toàn bộ sáng tác của Camus, khiến cho tính nước đôi đậm đặc trong tác phẩm của ông trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật.


- Tính biểu tượng


Có thể nói, một đặc điểm quan trọng hình thành phong cách nghệ thuật Camus chính là tính biểu tượng trong các tác phẩm của ông. Vừa có những biểu tượng riêng biệt trong từng tác phẩm lại vừa có cả một hệ thống biểu tượng chi phối toàn bộ các sáng tác của Camus; vừa có các nhân vật biểu tượng lại có các không gian biểu tượng (vừa là không gian lưu đày vừa là không gian vương quốc), hình ảnh biểu tượng (dịch hạch, mặt trời, biển, bầu trời đêm...). Chính các biểu tượng đó đã đóng vai trò quan trọng trong thể hiện tính cách nhân vật và tư tưởng của tác giả.


4. Các nhân vật đã truyền tải thông điệp của Camus, góp phần khẳng định sức sống của tác phẩm và giá trị tư tưởng của Camus.


Có thể Camus không được coi là một nhà triết học, nhưng ông đã thể hiện trong các tác phẩm của mình khá nhiều tư tưởng triết học đáng chú ý, đặc biệt là những tư tưởng của ông về cái phi lí.
Ba tiểu thuyết thành công đánh dấu ba thời kì sáng tác với những chuyển biến và kế thừa; quả thật Camus có thể tự hào về những gì mình đã đạt được trên phương diện là một nhà văn. Là một nhà văn phi lí và một nhà văn hiện sinh chủ nghĩa; các sáng tác của ông đã phải trải qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian khi rất nhiều tác phẩm văn học phi lí và văn học hiện sinh chủ nghĩa không còn chỗ đứng trên văn đàn. Có thể còn có nhiều lời bàn cãi về sức sống của các tác phẩm Camus, nhưng có một sự thật không thể phủ nhận được là cho đến tận ngày nay, các tác phẩm của Camus vẫn còn giá trị và ảnh hưởng đối với văn học thế giới; thậm chí ở Việt Nam, cho đến những năm gần đây, tác phẩm Camus mới được hiểu một cách đúng đắn.


Dĩ nhiên, có thể có nhiều người phê phán tính bi quan trong các sáng tác của Camus, nhưng đặt tác phẩm vào trong điều kiện lịch sử thời kì Camus sáng tác cũng như đặt vào trong sự hiểu biết về cuộc đời và tư tưởng của nhà văn, người đọc hoàn toàn có thể hiểu được thái độ của Camus.


Qua ba tiểu thuyết được chúng tôi khảo sát trong khoá luận này, có thể thấy quả thực các tác phẩm Camus đã viết về những vấn đề đặt để đối với nhân loại ngày nay. Các biểu tượng chồng chất trong các tiểu thuyết của ông càng khẳng định giá trị của các tác phẩm đó.


Camus đã viết về cái phi lí, sự phản kháng và lưu đày trong cuộc sống của con người hiện đại. Các tác phẩm của ông, bằng cách này hay cách khác, đã buộc con người phải nhìn nhận lại chính mình, nhìn nhận lại cuộc sống của mình. Có thể có những người không tán đồng với cách giải quyết của Camus hay không ủng hộ thái độ của ông khi đối diện với cái phi lí, đối diện với những vấn đề thời đại; nhưng dù có như thế thì họ vẫn không thể phủ nhận những vấn đề Camus đã đặt ra, không thể dửng dưng trước những câu hỏi tại sao đã ám ảnh con người hằng bao thế kỉ.


Trong ba tiểu thuyết của Camus, Dịch hạch được giới nghiên cứu và đông đảo bạn đọc đánh giá cao cả về giá trị nội dung và tư tưởng. Thông qua hình ảnh ẩn dụ dịch hạch, biểu tượng cho cái Ác, cho chiến tranh, cho những cái tăm tối phá huỷ con người và những gì thuộc về con người, Camus đã đưa ra một lời cảnh báo với toàn nhân loại về hiểm hoạ cái Ác. Cũng thông qua sự phản kháng của các nhân vật trong tác phẩm, Camus đã thể hiện một thái độ tích cực là phải đương đầu với cái ác, cái xấu; đương đầu với chiến tranh, hiểm hoạ, cho dù những sự phản kháng ấy có tuyệt vọng, có vô ích đi chăng nữa. Dịch hạch cũng là lời phủ định của Camus đối với những cầu viện nơi các đấng siêu hình; đồng thời là sự khẳng định vào sự tồn tại của những con người trung thực bình thường.


Trong khi đó, ở Người xa lạ và Sa đoạ, hai tác phẩm mang đậm tư tưởng bi quan của Camus, người đọc vẫn không thể phủ nhận những đóng góp của chúng đối với nhận thức của nhân loại. Cái phi lí mà tác giả thể hiện trong Người xa lạ, rõ ràng đã dạy cho con người phải biết thẳng thắn nhìn thẳng vào những phi lí cuộc đời. Ngay cả sự sám hối, sự giày vò và thái độ đóng kịch của anh chàng Clamence cũng thế thôi.


Dĩ nhiên, mỗi người đọc sẽ lại có một cách nhìn riêng về tác phẩm và nhân vật. Có thể có những cách hiểu hoàn toàn trái ngược nhau. Nhưng rõ ràng những gì Camus gửi gắm trong các tác phẩm của mình hoàn toàn không phải là những vấn đề đơn giản. Nó sẽ còn thách thức nhận thức của người đọc trong nhiều thế hệ nữa. Và có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng chừng nào trên thế giới còn tồn tại cái phi lí, sự giả dối, tồn tại chiến tranh, bất công và những dịch hạch tâm hồn, thì chừng ấy các tác phẩm của Camus sẽ vẫn còn giá trị. Nó không chỉ có giá trị cảnh báo mà còn thức tỉnh, không chỉ đưa ra những vấn đề đặt để trước nhân loại ngày nay mà còn đề xuất những cách giải quyết vấn đề đó.


Trên phương diện nghệ thuật, các tác phẩm của Camus cũng khẳng định được giá trị đích thực của mình. Kế thừa truyền thống và tiếp thu những nét hiện đại, tiểu thuyết Camus đã xây dựng được một phong cách nghệ thuật riêng biệt độc đáo. Không quá mới mẻ đến mức không hoà nhập được với nền tiểu thuyết thế giới như kĩ thuật viết tiểu thuyết phản tiểu thuyết của các nhà tiểu thuyết hiện đại; cũng không quá cổ điển đến mức nhàm chán như lối viết tiểu thuyết truyền thống; kĩ thuật viết của Camus là một sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, là sự cách tân trong tính truyền thống. Chính vì thế, nó xứng đáng được các thế hệ sau và ngay cả thế hệ đương thời tiếp thu, học hỏi.


5. Qua phân tích nhân vật, chúng tôi cũng rút ra một vài điểm tương đồng và khác biệt giữa Camus và một vài nhà văn khác, cụ thể là Kafka (so sánh trong hệ thống văn học phi lí) và Sartre (so sánh trong hệ thống văn học hiện sinh)


So với Kafka, Camus là một người đi sau; và chính ông đã bổ sung, phát triển quan niệm về cái phi lí của Kafka. Nếu Kafka đại diện cho cái phi lí khách quan thì Camus đại diện cho cái phi lí chủ quan. Các nhân vật của Kafka sống giữa cái phi lí, chịu tác động bởi cái phi lí và bất lực trong nỗ lực tìm kiếm câu trả lời cho những nhận thức về cái phi lí. Cho đến tận cuối cuộc đời mình, các nhân vật của Kafka vẫn không thể hiểu được về cái phi lí, họ hoàn toàn bị động trong cuộc sống phi lí.


Trong khi đó, nhân vật của Camus, cho dù lúc đầu cũng bị động, không nhận thức được về tình trạng phi lí của mình; nhưng cuối cùng đã hiểu rõ cái phi lí, hiểu rõ tình trạng của mình. Hơn thế nữa, các nhân vật của Camus còn phản kháng chống lại cái phi lí đó.


Một điểm đặc biệt nữa trong các tiểu thuyết phi lí của Camus là ông đã xây dựng các nhân vật phi lí trong sự phát triển. Từ L’Étranger đến Dịch hạch, nhân vật phi lí Camus đi từ bị động đến chủ động, từ vô thức đến ý thức, từ bình thản chấp nhận đến kiên quyết đấu tranh...


Chính đó cũng là điểm khác biệt chủ yếu giữa Kafka và Camus.


Còn với Sartre, rõ ràng, ngay từ thời thơ ấu cho đến khi trưởng thành và rồi đến tận lúc từ giã chốn lưu đày, Sartre và Camus đã có rất nhiều khác biệt. Sinh ra và lớn lên ở Paris trong sự yêu thương, đùm bọc của ông ngoại và bước vào thế giới sách vở ngay từ khi còn nhỏ; cuộc sống của Sartre gần như khác biệt hoàn toàn với cuộc sống của Camus - một chú bé sinh ra và lớn lên trong khu phố nghèo ở đất nước Algérie, vốn lúc này vẫn đang là thuộc địa của Pháp. Chính vì thế, trong khi Sartre có thể mạnh mẽ khẳng định con người chỉ thật sự là mình trong hành động, con người phải làm chủ bản thân mình; thì Camus luôn luôn bị ám ảnh bởi ánh mặt trời, bởi biển cả và gió đất cũng như bị ám ảnh bởi tính hai mặt của cuộc sống đến mức độ không thể không bị chi phối bởi cảm giác bị những cái siêu nhiên, mơ hồ bủa vây. Chính vì thế, các nhân vật của Camus luôn bị tác động bởi những yếu tố tự nhiên, trở thành một món đồ trong bàn tay số phận. Nhưng, cũng chính vì nhìn thấy sự tồn tại của sự vật trên hai bề trái - phải mà các tác phẩm của Camus vẫn ngập tràn ánh sáng và rạng ngời tình yêu với vùng Địa Trung Hải; trong khi Sartre lại nhìn tự nhiên ở cái bề thẳm sâu đen tối và trong khi nhân vật của ông phải sống trong một không gian ẩm thấp, tối tăm - một không gian lưu đày thật sự. Chủ nghĩa nhân ái, đối kháng, sở thích hạnh phúc và tình yêu “hình dáng đẹp” [18;57] ở Camus đối ngược với sự “dấn thân chính trị, cách mạng, ám ảnh bởi tội lỗi, ngán ngẩm “văn chương” ở Sartre”[18;57].


Lẽ tất nhiên, chúng tôi không muốn và cũng không thể so sánh độ hơn thua giữa hai nhà văn đó. Nhưng có một điều rõ ràng, như chính nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã nhận xét, “nếu Sartre chủ yếu là nhà tư tưởng ngay trong văn chương, thì Camus thực sự là một nghệ si ngay khi phát biểu những quan điểm hiện sinh” [15;275]. Và, dù thiếu đi bất kì ai trong hai người đó, văn học Pháp sẽ bị tổn thất thật sự.


Tóm lại:
Cuộc sống luôn tồn tại với hai mặt trái - phải song song. Cái nhìn một chiều chính là cái nhìn giết chết cuộc sống. Không phải chỉ riêng Camus mà còn nhiều nhà văn, nhà nghệ sĩ khác cũng nhìn nhận và chấp nhận thế giới trong sự tồn tại hai mặt đó. Chỉ có điều, ở Camus, nó đã trở thành đặc điểm chủ yếu chi phối thế giới nghệ thuật của tác phẩm.


Vấn đề bề trái và bề mặt là vấn đề quan trọng nhất trong tư tưởng, sáng tác của Camus. Chính vì nhìn sự vật theo cái nhìn nhị nguyên đó mà trong tư tưởng và tác phẩm của Camus luôn tồn tại một khối mâu thuẫn không dễ dàng giải quyết và cũng chưa từng được giải quyết.


Bề trái và bề mặt trong các nhân vật tiểu thuyết Camus được biểu hiện trên mọi mặt của cuộc sống. Từ tiểu thuyết đầu tiên đến tiểu thuyết cuối cùng, nhân vật Camus đã có bước phát triển trên mọi phương diện. Chính sự phát triển đó đã chứng minh tính đa dạng trong phong cách nghệ thuật Camus cũng như chứng minh sự phức tạp trong tư tưởng của ông.


Nhân vật tiểu thuyết Camus đã truyền tải thành công những thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm, góp phần hình thành một chủ nghĩa hiện sinh mang màu sắc riêng biệt của nhà văn. Mỗi nhân vật vừa đậm tính bi quan nhưng lại cũng đầy lạc quan. Qua nhân vật, Camus đã bộc lộ rõ cái nhìn cuộc sống cũng như thái độ sống của mình. Và dù còn có nhiều ý kiến trái ngược nhưng chúng ta không thể không nhìn nhận những đóng góp của Camus đối với văn học hiện đại trên cả phương diện tư tưởng và nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện sinh có thể phai mờ và thậm chí hoàn toàn mất đi ảnh hưởng của nó nhưng những tác phẩm của Camus nói chung và những tiểu thuyết của Camus nói riêng sẽ vẫn còn những giá trị nhất định.


Cuối cùng, có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng Camus đã thật sự dấn thân không chỉ trong cuộc sống bình thường mà trong cả nghệ thuật. Ông đã sống, đã viết với một thái độ trung thực và luôn luôn hết mình. Chỉ một thái độ đó thôi đã đủ để Camus trở thành một tấm gương cho những người đi sau trân trọng và học tập.

CLAMENCE - NHÂN VẬT SÁM HỐI (BỀ TRÁI VÀ BỀ MẶT TRONG CÁC NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS - CHƯƠNG 3)


Từ Người xa lạ đến Dịch hạch, nhân vật của Camus đã thực hiện một hành trình dài từ phân li đến tập hợp; và đến Sa đọa (xuất bản lần đầu năm 1956) nhân vật của ông lại trở về nguyên vẹn là con người phân li và hiện sinh.

Trong Sa đọa, cuốn tiểu thuyết - tự truyện được kể lại dưới hình thức đối thoại với người nghe vô hình, nhân vật chính Jean-Baptiste Clamence (“mà không phải là đích danh của tôi” [5;25]) đã dựng lên câu chuyện cuộc đời mình từ quá khứ đến hiện tại trên hai bề trái - phải. Cuộc đời anh ta là cuộc đời hai mặt của một kẻ hai mặt: từ tính cách, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống .v.v. đều được phơi bày ra trên cả bề trái lẫn bề phải của nó. Là một trạng sư ở thành phố Paris thành đạt trên mọi phương diện, anh ta tự coi mình là một kẻ thống trị đầy quyền uy cho đến một ngày kia, khi đột nhiên nhận ra tính hai mặt trong tính cách và thành công của mình. Anh ta bị ám ảnh bởi cái chết của một người phụ nữ ngã xuống dòng sông Seine mà anh ta không dám cứu; bởi hành động chiếm lấy phần nước cuối cùng ít ỏi và vô ích của một người bạn tù; bởi cái mặt trái trong tính cách của mình; đến mức trở nên sa đọa, phải rời Paris đến Amsterdam, tự lưu đày mình cả về mặt tinh thần và thể xác. Anh ta trở thành một quan-toà-sám-hối, kiếm tìm vô vọng sự giải thoát cho mình.

Sa đọa được chia thành 6 phần, có thể được coi như lời tự thú của Clamence trước một người nghe vô hình trong khoảng thời gian 5 ngày, với không gian di chuyển từ quán bar Mexico-City cho tới chiếc cầu, biển cả và nhà riêng anh ta. Trong 6 phần đó, cả cuộc đời của Clamence đã được tái hiện lại trước mắt người đọc, với tất cả vinh quang và suy sụp, đi tới những phần tươi sáng nhất trong bề mặt, cũng như những phần u tối nhất trong bề trái của nhân vật.

3.1. Clamence - Kịch sĩ bị lưu đày
3.1.1. Clamence - kịch sĩ

Clamence đã tự giới thiệu mình một cách ngắn gọn: Jean-Baptiste Clamence - Kịch sĩ. Có lẽ đó là từ ngắn gọn nhất để chỉ tính hai mặt trong con người và cuộc sống của anh ta. Clamence đã biến cả xã hội quanh anh ta thành một sân khấu lớn mà anh ta là nhân vật trung tâm điều khiển hoạt động của tất cả các nhân vật khác và cũng đồng thời bị điều khiển bởi chính các nhân vật khác. Giống như Meursault, anh ta cũng là một kẻ xa lạ đối với thế giới, nhưng trong khi Meursault xa lạ vì đi ngược lại những qui tắc, giá trị đạo đức thông thường thì Clamence lại xa lạ bởi anh ta luôn đóng kịch, luôn đeo mặt nạ. Nhưng, cũng như Meursault lúc đầu đã không nhận thức được tính phi lí trong sự tồn tại của mình, Clamence cũng đã đóng kịch một cách hồn nhiên đến mức gần như do bản năng. Anh ta cũng tự đề ra những nguyên tắc sống và những qui ước đạo đức theo một cái chuẩn của riêng anh ta - bằng cách đó, anh ta tự tách mình ra, trở thành xa lạ trong thế giới - và tuân thủ một cách nghiêm ngặt những qui tắc đó, để trưng ra trước khán giả một hình ảnh Clamence giả dối, một Clamence đóng kịch ngay khi chỉ có một mình.

Anh ta đi mai táng một viên tham tá của đoàn luật sư trong gió tuyết, vì “thấu rõ rằng sự có mặt (…) sẽ được chú ý và bình luận một cách thuận lợi cho mình” [5;50]. Anh ta ngả mũ chào như chào khán giả sau khi giúp một người mù loà băng ngang đường. Anh ta luôn “xem vợ bạn như một vật thiêng liêng” [5;79], và để tôn trọng nguyên tắc đó, anh ta thôi giao hảo với ông chồng trước khi gian díu với bà vợ… Anh ta đóng kịch một cách thường trực và tài tình đến độ anh ta tự khai tử con người thật của chính mình. Hay, con người thật ấy - một con người không rõ tên - chỉ tồn tại thuần túy; còn con người của kịch trường - một Jean-Baptiste Clamence nào đó mới là người sống thật sự.

Clamence đóng kịch, nhưng điều đặc biệt là anh ta không phải chỉ muốn diễn cho người khác xem; cái làm anh ta quan tâm hơn cả là diễn cho mình xem. Nói cách khác, anh ta sống một cuộc sống hai mặt, chính vì lí do cốt yếu: thoả mãn ham muốn thống trị của mình.

Clamence đã từng thống trị kẻ khác và cũng đã từng bị kẻ khác thống trị. Khát vọng của anh ta là được thống trị tất cả: thiên nhiên, đồng loại và chính mình. “Tôi hằng khao khát làm Chúa thống trị mọi sự” [5;73], “tôi chỉ có thể sống ở đời (…) trong điều kiện này: trên khắp quả địa cầu, hết thảy mọi người, hay đại đa số nhân quần, đều hướng nguyện về tôi, mãi mãi không xác không hồn, không đời sống độc lập, sẵn sàng đáp lời tôi kêu gọi bất luận vào lúc nào, nghĩa là, tự nguyện làm kẻ khô cằn, cho đến ngày tôi rủ lòng chiếu cố tới họ với nguồn ánh sáng của mình” [5;91]. Anh ta bị ám ảnh bởi ham muốn thống trị, giống như một nhân vật trong truyện ngắn Kẻ phản bội hay một linh hồn bối rối: “hùng mạnh, đúng thế, chính đấy là cái từ mà tôi nghiền ngẫm trên đầu lưỡi tôi. Tôi ước mơ đạt được quyền lực tuyệt đối, cái quyền lực bắt mọi kẻ khác phải quì gối, bắt đối thủ phải qui hàng” [5;51]. Cái ước mơ bắt kẻ khác phải quì gối đó đã khiến Clamence trở nên tàn nhẫn, thành một kẻ đê tiện. Anh ta chinh phục và rồi ruồng rẫy một người phụ nữ chỉ để xoa dịu lòng tự ái của mình; anh ta trở thành một Don Juan đối với không biết bao phụ nữ trong khi trói buộc họ bởi lời thề chung thuỷ.
Nhìn nhận ham muốn thống trị ở góc độ tâm lí, có thể hiểu được tính hợp lí trong những hành động của Clamence; một con người luôn muốn đứng trên cao, “cho đến tận những tiểu tiết chi li trong đời sống tôi cũng cần được đứng trên” [5;34], sống với cái ta đây tuyệt đối, chỉ yêu thương duy nhất chính con người mình. Kết hợp giữa ham muốn thống trị - cái ta vị kỉ và sự đóng kịch bản năng; Clamence ngự trị bên trên kẻ khác bằng một vẻ ngoài nhún nhường, từ tốn, chinh phục kẻ khác bằng cái đạo đức giả vờ khiến chính anh ta cũng phải si mê, ngưỡng vọng. Anh ta là chúa tể của chính mình.

Chính cái ham muốn đó, sự ích kỉ đó cũng là một thứ dịch hạch trong tâm hồn, một thứ dịch hạch không bao giờ chết hẳn đã lưu đày con người trong chốn nhân gian.




3.1.2. Không gian lưu đày

Chỉ quan sát trên phương diện tâm lí mới có thể thấy rõ nhất bi kịch của Clamence khi tự lưu đày mình trong một vùng ẩm thấp, sương mù dày đặc; một địa ngục trần gian trên phần đất chót mé của lục địa. Một kẻ say mê độ cao và ánh sáng mặt trời giờ phải sống trong một đất nước nằm dưới mực nước biển và quanh năm sương mù vây hãm. Một con người thanh lịch, hào hoa luôn được đón tiếp trong đèn hoa rực rỡ, giờ lại phải đặt văn phòng tại một quán bar của dân giang hồ, thuỷ thủ. Từng như con chim đại bàng sải cánh trên bầu trời cao rộng, giờ đây anh ta trở thành tù nhân trong nhà tù kí ức của chính mình.

Thành phố Amsterdam, vì thế, trở thành một biểu tượng. Trước hết, đó là biểu tượng của chốn lưu đày. Sau nữa, với kênh ngòi chằng chịt và sương mù dày đặc như trong mê cung, nó là biểu tượng của con đường dẫn đến địa ngục tâm hồn. Rồi quán bar Mexico-City như trung tâm của vũ trụ trở thành biểu tượng cho sự kết án cũng như biểu tượng cho sự xa lạ. Và vịnh Zuydersse “mặt nước lặng lờ, buồn hiu, bất tận và nhoè lẫn với đất liền” biểu tượng cho một chậu nước thánh rửa tội mà Clamence “không bao giờ còn bước chân ra khỏi được” [5;142], hay cũng có nghĩa chẳng bao giờ rửa sạch được tội lỗi của mình.

Với Clamence, nước, biển, đêm tối không còn mang tính tích cực như với các nhân vật trước nữa. Không những thế, nó còn trở thành nỗi ám ảnh, trở thành chứng nhân tội ác và vị quan toà xét xử anh ta. Ở đây, nước, biển, đêm tối đã hiện ra với bề trái của nó; biến Amsterdam thành một chốn lưu đày thực sự. Sương mù dày đặc, biển cả bao la nhưng buồn hiu, bất tận và nhàn nhạt một màu; đêm tối cản tầm mắt con người và bao che cho tội lỗi. Ở Amsterdam, khác hoàn toàn với khung cảnh Alger quen thuộc, mặt trời không chói chang, không khí không oi bức, con người không bị cầm tù trong cái không khí bức bối biến cảnh vật thành ra đậm tính phi nhân. Trong một hoàn cảnh địa lí như thế, con người không còn cần đến đêm tối để được tận hưởng cái mát mẻ, êm đềm và che chở. Amsterdam nằm trong một điều kiện khí hậu hoàn toàn khác. Nó đối lập hoàn toàn với không gian sống quen thuộc của các nhân vật ở Alger hay Oran. Nằm dưới mực nước biển, kênh ngòi chằng chịt, sương mù dày đặc, Amsterdam gợi lên một vẻ ẩm thấp thê lương, một sự mù mịt, u mê, tối tăm, cũng là một cảm giác không có lối thoát nào khác. Chính ở đây, con người lại cần đến ánh sáng để cảm giác mình được sống, cần đến mặt trời để xua đi sự u mê.


3.1.3. Sự lưu đày trong tâm hồn

Với ham muốn thống trị, với sự tôn sùng cái tôi cá nhân của mình, Clamence lẽ dĩ nhiên trở nên dễ bị tổn thương hơn rất nhiều người khác nếu phải đối đầu với những gì động chạm đến lòng kiêu hãnh của anh ta, đến cái khao khát ngự trị trên đỉnh cao của anh ta. Chỉ một chi tiết rất nhỏ nhặt, chỉ một sự kiện tình cờ thoáng qua trong cuộc sống hàng ngày cũng có thể khiến anh ta bị giày vò, suy nghĩ; khiến anh ta bị hành hạ một cách khổ sở. Cảm thấy mình đã tỏ ra đớn hèn trước đám đông, anh ta đã suốt mấy ngày trời ngốn nghiến một niềm ân hận độc hại. Chính vì thế, dù cho có ở đỉnh cao của danh vọng, anh ta vẫn luôn phải chịu sự lưu đày trong tâm hồn.

Cũng chính con người vị kỉ và thống trị đó, khi phải đối diện với chính mình, đối diện với bề trái trong con người mình, sẽ không tránh khỏi sự dằn vặt. Cuộc đời anh ta như đựơc chia ra thành hai giai đoạn: trước và sau khi ý thức được sự hai mặt của mình. Ở khoảng giữa hai giai đoạn đó, hay bước đệm từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 được hình thành trên ba sự kiện quan trọng: tiếng cười trên cầu, vụ lộn xộn ở đoạn đèn giao thông và cái chết của người phụ nữ trên sông Seine. Cả ba sự kiện, với mức độ đậm nhạt khác nhau, đã trực tiếp ảnh hưởng đến tâm lí Clamence, kéo anh ta trượt dài theo cái dốc của sự sụp đổ. Anh ta bắt đầu sa đọa, bị ám ảnh, sám hối và tự lưu đày mình. Trong ba sự kiện, tiếng cười trên cầu đóng vai trò hồi chuông thức tỉnh, réo gọi nhận thức của anh ta; vụ lộn xộn khiến anh ta nhận ra mặt trái của hình ảnh đầy vinh quang sáng lạn; còn cái chết của người phụ nữ mà anh ta không dám cứu, không dám nhờ người khác cứu đã khiến anh ta bị ám ảnh bởi cảm giác tội lỗi.

Để hiểu rõ hơn sự chuyển biến trong nhận thức của anh ta, chúng tôi đã lập bảng thống kê những tiếng cười (chúng tôi chỉ khảo sát những tiếng cười, không tính đến những cái cười thầm, cười mỉm..) xuất hiện trong tác phẩm.


Khảo sát tiếng cười trong tác phẩm Địa điểm
C1 (Tiếng cười xuất hiện lần 1) Trên cầu Nghệ thuật
C2 (Tiếng cười xuất hiện lần 2) Dưới dòng Seine
C3 (Tiếng cười xuất hiện lần 3) Trong nhà riêng
C4 (Tiếng cười xuất hiện lần 4) Không xác định
C5 (Tiếng cười xuất hiện lần 5) Không xác định
C6 (Tiếng cười xuất hiện lần 6) Không xác định

Vị trí
Sau lưng
dưới cửa sổ
Từ trong bụng
bao vây xung quanh
Từ chốn xa xăm


Thời gian

đêm thu dịu mát

Không xác định
Những đêm quả tình tuyệt diệu
Tâm trạng

Thoả mãn về mình
Phân vân suy nghĩ
Nhớ đến người tình
Tan vỡ ảo mộng về mình
cảm giác thống trị
Chủ thể
Không xác định
bọn trẻ
chính mình
Toàn thể vũ trụ
Không xác định
Đặc điểm
tiếng cười ré
chuỗi cười trôi xa
Tiếng cười vui vẻ rộn ràng
Tiếng bật cười tương tự trên cầu Nghệ thuật

Tiếng cười ré

tràng cười ré
Thật thà, hồn nhiên, gần như thân thiện,
Phản ứng của Clamence
Sửng sốt, trở mình đột ngột
đánh trống ngực dồn hồi
khép cửa sổ, nhún vai
-cười sự biện hộ của mình
-nhận ra sự ích kỉ và giả dối của mình
không đủ sức chịu đựng
-thấy bị xét xử vì những hạnh phúc đã qua

Hoài nghi trở lại
Nhận ra tính hai mặt của mình


Qua bảng miêu tả các tiếng cười trong tác phẩm, chúng tôi nhận thấy mặc dù xuất hiện 6 lần với những đặc điểm vị trí, địa điểm, tâm trạng và thời điểm khác nhau; nhưng tóm gọn lại, tiếng cười trong Sa đoạ chỉ có hai giọng điệu chính: tiếng cười cảnh tỉnh (bao gồm C1; C2; C3) và tiếng cười xét xử (gồm C4; C5; C6).

Tiếng cười cảnh tỉnh là những tiếng cười từ xa vọng lại; xuất hiện trong thời điểm Clamence đang thấy thoả mãn với những vinh quang của mình. Tiếng cười có vẻ hồn nhiên, thân thiện, tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại đeo đuổi, ám ảnh anh ta; khiến anh ta giật mình chột dạ, để rồi nhận ra “cái cười mỉm của mình mang hai mặt” [5;54].

Trong khi đó, tiếng cười xét xử lại là tiếng cười bủa vây anh ta, như lời khẳng định khi anh ta còn đang phân vân, không dám nhìn thẳng bề trái trong con người mình.

Tiếng cười C3 được xác định là tiếng cười vui vẻ rộn ràng của bọn trẻ trên đường phố; nhưng thật ra tiếng cười này xuất hiện chỉ như làm nhiệm vụ an ủi, lừa phỉnh Clamence. Tiếng cười C3 giúp anh ta cảm thấy tính vô hại của cái cười C1 và C2, nhưng thật ra đó cũng chỉ là một sự đóng kịch. Tiếng cười C1 và C2 đều xuất hiện sau lưng, đầy huyền bí (dù anh ta phủ nhận); nó đến rồi đi một cách bất ngờ nhưng ám ảnh. Nó không chỉ xuất hiện một lần (nếu chỉ xuất hiện một lần, hẳn Clamence đã có thể quên nó ngay), mà tắt rồi lại vang lên mạnh mẽ hơn, tràn ngập hơn nhưng cũng xa vời hơn, hư ảo hơn. Nó như sự cảnh báo dai dẳng bám đằng sau Clamence, để rồi có thể vụt xuất hiện ngay trong những lúc anh ta cảm thấy mãn nguyện nhất, hạnh phúc nhất, khi anh ta bay liệng trên những tầng cao tự do và thống trị. Tiếng cười C1 và C2, về bản chất, cũng giống như tiếng cười xét xử. Chỉ có điều, ban đầu anh ta không nhận ra hoặc không dám nhận ra tính mỉa mai, kết án của nó. Đến khi đã nhận ra tính hai mặt của mình, anh ta mới thấy những tiếng cười ấy bủa vây quanh mình. Tiếng cười ấy là biểu tượng cho sự phán xử của người khác đối với anh ta; còn sự ám ảnh bởi cái chết của người phụ nữ trên dòng sông Seine lại là biểu tượng cho sự tự phán xử của chính anh ta.

Nhìn ở góc độ tâm lí, việc Clamence không lao xuống làn nước giá lạnh để cứu người phụ nữ có thể được lí giải là do sự hèn nhát mà bất kì người nào cũng có thể có. Nhưng cái tôi đóng kịch đã khiến anh ta không những không cứu mà cũng không tri hô cho ai biết. Nếu tri hô, người phụ nữ có thể được một người nào đó cứu; Clamence sẽ đồng thời phải chịu hai sự thất bại: vừa thất bại trong vai kịch là một anh hùng, một con người nhân ái và dũng cảm; vừa thất bại trong cuộc tranh chấp để đứng cao hơn người khác (anh ta đã từng cố gắng để “giành lấy kẻ mù loà khỏi mọi cử chỉ ân cần nào không phải là của mình” [5;30]). Anh ta đã gián tiếp cướp đi mạng sống của người phụ nữ đó. Anh ta thật ra không phạm tội , nhưng lại bị kết án và bị lưu đày suốt cả phần đời còn lại. Tuy nhiên, luôn cảm thấy bị xét xử (bởi chính mình) nhưng lại chưa được đền tội; anh ta không lúc nào cảm thấy thanh thản. Vừa muốn bị kết tội và đền tội, vừa muốn công khai tội lỗi của mình để không còn bị dằn vặt, ám ảnh; Clamence vừa không muốn để người khác biết những mặt trái của mình. Bị giằng xé giữa hai điều đó, anh ta càng ngày càng trượt dốc. Cũng giống như tiếng cười xét xử đến rồi đi không thể nào kiểm soát được, cảm giác tội lỗi cũng ám ảnh Clamence suốt một thời gian dài. Cảm giác đó có thể ngủ yên trong đáy sâu kí ức của anh ta, để anh ta được hưởng một sự bình yên giả trá; rồi khi dường như anh ta đã được tự do, được thanh thản, thì cảm giác đó lại trỗi dậy, có thể dưới hình dạng của một cây cầu gợi anh ta nhớ tới cây cầu Nhà vua nơi anh ta phạm tội, có thể dưới dạng một đống rác đen trôi trên mặt nước gợi anh ta nhớ tới thi thể người phụ nữa đó.
Nhưng, nếu được làm lại, nếu được quay trở về quá khứ sau khi đã chịu bao nhiêu sự đày đọa như thế, phải chăng anh ta sẽ lao mình xuống dòng Seine để cứu người phụ nữa đó và cứu chính mình? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì dù sao, anh ta cũng cảm thấy may mắn vì tất cả đều đã muộn. Và thật ra, anh ta có thật sự quan tâm đến số phận người phụ nữa đó đâu?

Clamence, khi đã nhận ra bề trái tình cảm và cuộc sống của mình, nhanh chóng biến thành một con người rất khác.

Từng yêu đến si mê độ cao và khoảng không khoáng đạt, giờ anh ta lại “thích hơi ẩm bốc lên từ chốn sình lầy, mùi lá cây ngâm nước rữa thối dưới kinh và màu tang tóc xông lên từ các ghe tải tràn trề bông hoa” [5;58]. Từng sống giữa Paris hoa lệ, kinh đô ánh sáng, anh ta lại tự nguyện định cư tại một “khoảng không gian nhỏ nhắn chi chít nhà cửa và sóng nước, vây bọc bởi sa mù, đất băng lạnh giá và biển cả đầm đìa hơi sương” [5;20]. Từng là người ham sống và tràn trề sức sống, giờ anh ta cảm thấy bị đè nặng bởi cảm giác cái chết đang đến gần, bởi sự gian dối bao bọc chung quanh. Anh ta đã thay đổi. Ngày trước anh ta muốn được kẻ khác tôn sùng mình, giờ đây anh ta muốn tự hạ bệ mình, muốn được người khác phán xử, kết tội và tha thứ. (Tuy nhiên, cần thấy rằng với Clamence, khi anh ta bị phán xử, hạ bệ chính là khi anh ta thấy mình được giải thoát, thấy mình lại được đứng cao hơn người khác. Cũng như nghề quan-toà-sám-hối của anh ta, về thực chất, “vì chưng bất luận quan toà nào sớm muộn gì rồi cuối cùng cũng hoá thành kẻ đi sám hối, vậy thì cần phải ngược dòng mà hành nghề sám hối để có thể cuối cùng hoá thành quan toà” [5,170]. Nói cách khác, anh ta sám hối để giành được quyền kết tội người khác. Tóm lại, từ đầu đến cuối, anh ta vẫn không thể từ bỏ được khát khao thống trị và chiến thắng.) Anh ta mơ ước có được sự sòng phẳng ân đền oán trả, nhưng cái tôi kiêu hãnh và đóng kịch không cho anh ta làm thế. Anh ta bước vào con đường bê tha, phóng túng, hòng mong “xoá sạch mọi tiếng cười chế giễu, phục hồi im lặng và nhất là trao phong cho chúng ta tính chất bất diệt” [5;133]. Nhưng, cho dù có làm gì đi nữa, anh ta mãi vẫn là một kẻ phạm tội chờ ngày thi hành án.

http://myweb.wvnet.edu/~jelkins/lawyerslit/images/camus_fall.jpg

3.2. Vinh quang trong quá khứ và nghề quan-toà-sám-hối
3.2.1. Clamence và vương quốc

Trong các tác phẩm của Camus, cuộc sống hiện tại là nơi lưu đày. Nhưng mặt khác, nó lại cũng là vương quốc, là quê hương. Thế giới của Sa đoạ cũng mang biểu tượng hai mặt như thế: vừa là nơi lưu đày, Amsterdam đồng thời là vương quốc; vừa là thành phố ẩm ướt mù sương kênh ngòi chằng chịt, Amsterdam đồng thời lại là thành phố đầy huyễn hoặc tràn trề ánh sáng và hoan lạc.

Hình ảnh vương quốc trong Sa đoạ là tập hợp của Amsterdam, Paris và quần đảo Hi Lạp; trong đó Paris và Hi Lạp là những hình ảnh trong quá khứ, còn Amsterdam lại là hình ảnh trong mộng tưởng. Paris và Hi Lạp tồn tại trong kí ức của Clamence, nhưng trong khi thực tại với sương mù, với “những mép bờ bằng phẳng xoá nhoà trong lớp mù sa” [5;127], với mưa dầm và ánh tà nhạt nhoà gây cảm giác như đi trong giấc mộng thì quá khứ với Paris chói loà ánh sáng, với những hòn đảo Hi Lạp nổi bật dài theo chân trời lại gây ấn tượng về một sự tồn tại thật sự, sáng rõ. Trong khi Amsterdam lưu đày là biểu tượng cho thực tại sa đọa, cho tội lỗi, cho bóng tối và thất bại thì Paris, Hi Lạp lại là biểu tượng cho quá khứ đẹp đẽ, cho vinh quang, ánh sáng và thành công. Còn Amsterdam - vương quốc lại là biểu tượng cho mộng ảo, cho hi vọng và cho sự kiếm tìm lối thoát, kiếm tìm sự bình an, hoan lạc và hưởng thụ. Một thế giới có thật nhưng đã qua, một thế giới có thật đang tồn tại và một thế giới không thật trong hiện tại; cả ba thế giới đó cùng tồn tại, cùng chi phối cuộc đời và tâm tư Clamence; hình thành nên những mâu thuẫn gay gắt nhưng lại cũng là những sự dung hoà kì lạ trong anh ta. Vương quốc đó luôn luôn tồn tại để không một lúc nào Clamence không bị giày vò, ân hận và nuối tiếc. Nó cũng luôn tồn tại để nâng đỡ tâm hồn Clamence trong địa ngục trần gian.

3.2.2. Vinh quang trong quá khứ

Trước khi trở thành một kẻ lưu đày nơi quê người, Clamence đã từng là kẻ thống trị, người chiến thắng, một Giáo hoàng, một Đức Chúa cha. Anh ta đã xây dựng cho mình hình ảnh một con người hoàn hảo: một luật sư tài năng, một người tình nồng nhiệt, một người đàn ông lịch lãm, một con người hào hiệp, khiêm nhường và sẵn sàng giúp đỡ người khác. Anh ta đạt được thành công trên mọi lĩnh vực: sự nghiệp, ái tình và thoả mãn chính mình. Lương tâm anh ta được yên bằng, tâm hồn anh ta được thư thái và vui vẻ. Nhìn bề ngoài, anh ta là một con người gương mẫu, tài hoa, một vị thánh vừa thanh cao vừa trần tục. Và xét ở góc độ này, Clamence cũng là một con người tập hợp như Tarrou và Rieux. Nhưng, điểm khác biệt lớn nhất giữa Clamence- trước (chúng tôi dùng từ này gọi nhân vật Clamence trước khi anh ta nhận ra tính hai mặt của mình và dùng từ Clamence-sau cho nhân vật Clamence sau thời điểm đó) và các nhân vật của Camus đó là anh ta dường như hoàn toàn thoả mãn về mình, là chủ nhân thật sự của chính mình. Chính anh ta là người điều khiển hoạt động của mình và của những người xung quanh; luôn luôn tự tin vào chính mình và hoàn thành xuất sắc mọi kế hoạch đã đề ra.

Tuy nhiên, với Clamence, tất cả những thành công trong quá khứ chỉ có một ý nghĩa; thoả mãn chính mình. Đó chính là thứ anh ta mơ ước, kiếm tìm và đã tìm được. Xét ở góc độ này, Clamence là một nhân vật phân li hoàn toàn. Nhưng, khác với Meursault, Clamence là một nhân vật phân li trong cái vỏ tập hợp. Anh ta quan tâm đến mọi người, làm từ thiện .v.v. nhưng thật ra anh ta chỉ quan tâm đến cá nhân mình. Tưởng như anh ta hành động vì người khác, nhưng thực chất là vì cái Tôi của mình. Anh ta xếp mình đứng cao hơn tất cả và vì thế, tự tách mình ra khỏi mọi người.

Sau này, khi đã từ bỏ Paris, từ bỏ xứ sở đã lưu dấu những tháng ngày huy hoàng của mình, Clamence luôn nuối tiếc vì những gì đã mất đó, luôn khắc sâu trong kí ức những hào quang quá khứ đó. Trong sự lưu đày ở hiện tại, trong sương mù thành Amsterdam; quá khứ đó là ánh sáng, là hơi ấm, là vương quốc của anh ta.




3.2.3. Quan-toà-sám-hối

Clamence-trước đã đứng trên tột đỉnh vinh quang, còn Clamence-sau dường như lại xuống đến tận cùng của sa đọa. Tự gọi mình là quan-toà-sám-hối, Clamence-sau không ngừng dằn vặt và sám hối. Chính trong khi đó, anh ta đã thể hiện con người thật của mình. Không còn bị che mắt bởi những hào quang giả tạo, anh ta nhận ra bản tính thực của mình, nhận ra rõ rệt cả hai bề trái - phải trong con người mình.

Nghề quan-toà-sám-hối mà anh ta tự nhận, ở bề trái của nó là sám hối để trở thành quan toà, nhưng ở bề mặt của nó lại là sám hối trước khi trở thành quan toà. Trở thành quan toà xét xử chính mình trước khi xét xử người khác; điều đó cũng đồng nghĩa với việc mỗi người phải nhìn nhận những tội lỗi của mình, thẳng thắn đánh giá bề trái trong con người mình; cũng như mỗi người phải sống, sám hối một cách chân thật. Cuộc sống có thể phi lí, dịch hạch có thể đe dọa, nhưng bằng sự phản kháng và sám hối, con người có thể chiến thắng, có thể hoàn thiện mình.

Clamence đã mất một thời gian dài trước khi hành nghề quan-tòa-sám-hối. Bị ám ảnh bởi cảm giác tội lỗi, bởi tính giả trá của mình, anh ta đã tìm quên trong rượu, trong đàn bà và sự sa đọa; nhưng vẫn không thể nào quên được những ám ảnh phạm tội đó của mình. Cho tới khi đó, anh ta mới nhận ra cần phải trở thành quan-tòa-sám-hối; bởi vì chỉ khi đã sám hối con người mới có quyền là quan toà kết án người khác. Sám hối, cũng có nghĩa là nhận ra bản chất của mình, giảm đi sự gia tăng của những lời ngợi ca gian dối của người đời và bằng cách đó, “hợp cách mình với cuộc đời” [5;120] hơn. “Vả chăng, không một ai có thể khẳng định mình vô tội, trong lúc mọi người có thể khẳng định mà chẳng sợ sai lầm rằng chúng ta thẩy đều có tội” [5;143].

*

3.3. Một số vấn dề thi pháp
3.3.1. Tính nước đôi của phương thức kể chuyện

Trong Sa đoạ, có sự xuất hiện người kể chuyện và người nghe chuyện. Nhưng, trong khi người kể chuyện đã được giới thiệu là Clamence thì người nghe lại không được xác định một cách rõ ràng, chắc chắn. Đó vừa có thể là người khác, lại vừa có thể là chính người kể.

Nhìn ở hình thức, nhân vật tôi đang nói chuyện với một người nghe vô hình. Vì toàn bộ tác phẩm là một tràng dài liên tục những lời kể của nhân vật tôi, nên câu chuyện cuộc đời của Clamence được tái hiện lại dưới hình thức độc thoại với một thính giả câm. Tuy nhiên, qua lời kể của nhân vật, người nghe dường như vẫn tham gia vào câu chuyện, vẫn đưa ra những câu trả lời, những câu hỏi, những lời nhận xét “Ngài nói chí lí, cái lối lặng thinh im im của y quả là inh ỏi, chối tai” [5;8]. “Vâng, thưa ngài, xứ Hoà Lan là một giấc mộng” [5;21]… Độc thoại của Clamence, đến đây, đã trở thành đối thoại, một kiểu đối thoại-giả [13;106].

Sự nhập nhằng giữa độc thoại - đối thoại này đã mang đến một sự mơ hồ đối với nhận thức về nhân vật. Anh ta thật sự là người như thế nào? Anh ta chân thành hay giả dối? Anh ta sám hối hay biện hộ?

Clamence đã bị ám ảnh một thời gian dài bởi cảm giác tội lỗi, bởi sự sám hối và phán xử chính mình. Kể câu chuyện cuộc đời mình cho một người khác nghe chính là quá trình tự thú của anh ta; chính là sự thôi thúc bởi mong muốn được giải thoát, được phán xử, được đền tội. Đối diện với một quan toà không phải là mình, chấp nhận đặt mình dưới sự phán xét của một người mới quen, Clamence đã chứng tỏ một sự chân thật thực sự, một sự sám hối chân thành. Với một người từng đứng trên đỉnh cao của vinh quang và ánh sáng, với một người khao khát thống trị và khẳng định mình như Clamence, sự tự thú đó chứng tỏ một sự dũng cảm đặc biệt và một sự day dứt khủng khiếp.

Tuy nhiên, theo dõi toàn bộ văn bản Sa đoạ và dựa trên những hiểu biết về tâm lí nhân vật, chúng tôi nghiêng về ý kiến cho rằng người nghe trong tác phẩm không phải ai khác mà chính là Clamence. Nói cách khác, Sa đoạ được thể hiện dưới hình thức độc thoại nội tâm hay đối thoại giả với chính mình.

Trong phần kết thúc tác phẩm, ở đoạn: “Vậy thì ngài hãy vui lòng thuật lại cho tôi nghe sự tình đã xảy ra trên bến bờ dòng Seine và ngài đã xoay xở cách nào để khỏi phải liều thân nguy đến tính mạng? Ngài hãy đích thân cất tiếng thốt lên mấy lời van nài đã không ngừng vang dội suốt bao năm trường trong lòng tôi giữa đêm thâu, mấy lời van nài tôi sẽ được phát biểu qua cửa miệng ngài: Ới cô ơi, cô hãy giùm tôi mà lại nhảy xuống dòng nước, cho tôi lần nữa được dịp cứu vớt cả đôi ta!” thì đâu là người nói, đâu là người nghe? Không phải người nói là Clamence trong hiện tại và người nghe cũng lại là một Clamence sao? Clamence-nghe này hẳn phải là người đã từng trải qua sự kiện quan trọng trên cầu Nhà vua năm nào; hay nói chính xác hơn, Clamence này chính là hình ảnh nhân vật khi vừa đến Amsterdam, vẫn còn dáng vẻ “hào hoa phong nhã, ăn mặc suýt soát sang trọng, có con mắt lõi đời của hạng người 40 đã suýt soát sành sỏi hầu hết mọi chuyện” [5;14]. Người nghe, vì vậy, vừa là chính người kể lại vừa như không phải là người kể.

Điều này cũng dễ hiểu vì Clamence vốn là người có ham muốn thống trị, từng là một kịch sĩ đại tài và luôn đặt cái tôi của mình lên trên hết, nên dĩ nhiên anh ta khó có thể phơi bày những xấu xa trong con người mình trước cái nhìn soi mói của người đời. Anh ta không thể để cho người khác được quyền phán xử mình. Nhưng anh ta lại bị ám ảnh và dằn vặt quá lâu nên không thể chịu đựng được sức nặng của những ám ảnh đó. Anh ta cần được thú nhận, cần được người khác phán xử và cần tìm một sự thanh thản trong tâm hồn. Không thể và không muốn viện cầu đến Thượng đế, anh ta buộc phải thú nhận với người khác. Sự giằng xé giữa một bên là ham muốn thống trị và tình yêu cái tôi đối với một bên là sự sám hối và mong muốn được đền tội đã đặt Clamence vào trong một tình huống khó khăn: nói với người khác hay giữ nguyên trong lòng, để người khác phán xử hay tự mình giày vò mình? Cuối cùng, anh ta đã lựa chọn một giải pháp trung gian: thú tội với một người khác giả vờ, nhưng để cho có tính thuyết phục, người khác giả đó phải được xây dựng y như thật. Một lần nữa, Clamence lại đóng kịch và đóng kịch thành công.

Cũng lại một lần nữa, anh ta thể hiện sự giả dối của mình. Rốt cuộc thì sau bao nhiêu cố gắng, anh ta vẫn không thể chiến thắng được chính mình.

Cho dù anh ta có là con người hai mặt, thì trong anh ta, bề trái vẫn luôn chiếm ưu thế. Anh ta là một con người thời đại, biểu tượng cho “sự sa đọa vô phương cứu chữa của cái sinh linh cô độc trôi giạt giữa những đô thị lớn” [27;282].

3.3.2. Thời gian nghệ thuật

Sa đọa là câu chuyện cuộc đời Clamence đã được chính anh ta kể lại trong khoảng thời gian năm ngày, từ ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng nhân vật người nghe-giả kia có mặt ở Amsterdam. Tác phẩm được chia thành sáu phần trong đó bốn phần tương ứng với bốn ngày gặp gỡ và kể chuyện, riêng hai chương 4 và 5 lại cùng là câu chuyện diễn ra trong ngày thứ tư. Thời gian kể chuyện này đã mang đến cho tự truyện một không khí chân thật, tưởng như Clamence đang thực sự kể lại cuộc gặp gỡ với một người khách lạ; cũng có nghĩa là những gì anh ta kể lại, lời thú nhận của anh ta là những lời nói thật tâm. Anh ta dường như thật sự dũng cảm khi dám tự phán xử mình trước một người khác không quen biết đó.

Nếu thời gian kể chuyện chỉ gói gọn trong năm ngày thì thời gian truyện kể lại kéo dài suốt từ những tháng ngày nhân vật đang ở trên đỉnh cao của thành công và vinh quang cho đến khi anh ta trở thành quan-toà-sám-hối trong chốn lưu đày, nơi địa ngục trần gian.

Trong khi thời gian kể chuyện được sắp xếp theo trục thời gian tuyến tính thì thời gian truyện kể lại bị người kể chuyện xáo trộn lung tung, vừa ở hiện tại lại quay trở về quá khứ; từ quá khứ xa lại kéo về quá khứ gần hay ngược lại; từ quá khứ xác định cho đến quá khứ không khác định. Thậm chí, nhân vật còn rào đón, hẹn trước một thời gian trong tương lai. Những khoảng thời gian chồng chéo đó đã tạo nên những tầng lớp cho tác phẩm, khiến người đọc có cảm giác như đang lạc bước vào trong mê cung kí ức của người kể chuyện.

Khi câu chuyện được kể lại mang tính chất một lời thú tội, một sự sám hối, một lời tự phán xử mình; việc đảo trật tự thời gian mang nhiều ý nghĩa trong tìm hiểu tính cách nhân vật.

Có thể hiểu nhân vật đang xúc động mạnh, anh ta không thể sắp xếp câu chuyện một cách mạch lạc mà nhớ gì thì kể đó. Dường như anh ta đã bị ám ảnh trong suốt một thời gian dài và rất khó để có thể kể lại rõ ràng câu chuyện theo tuần tự. Dường như dòng cảm xúc của anh ta quá mạnh mẽ, mong muốn được giãi bày của anh ta quá mãnh liệt. Và lẽ dĩ nhiên, như thế có nghĩa những cảm xúc của anh ta là thực.

Nhưng thực ra lại hoàn toàn ngược lại. Sự đảo trật tự thời gian đó lại nằm trong tính toán của người kể chuyện. Anh ta để các sự kiện chồng chéo lên nhau như một sự tung hoả mù khiến người nghe vô tình bị cuốn theo dòng cảm xúc của anh ta, khiến người nghe như một người đang lạc bước trong sương mù cần đến sự chỉ dẫn của anh ta. Không những thế, anh ta còn thể hiện sự rào đón ngay từ lần đầu gặp gỡ. Anh ta giới thiệu mình là quan-toà-sám-hối ngay trong lần đầu gặp nhau, trong suốt những ngày tiếp theo anh ta đều nhắc lại vấn đề này, nó thật sự trở thành mục đích chính của cuộc nói chuyện. Nhưng chỉ đến tận ngày cuối cùng, anh ta mới giải thích quan-toà-sám-hối nghĩa là gì. Cũng như các sự kiện khác cũng được anh ta kể lại bằng cách rào đón như thế. Cũng có nghĩa là anh ta đã hùng hồn biện hộ cho mình trước cả khi để cho đối phương biết được tội lỗi của mình. Nói cách khác, anh ta đã thực hiện một mẹo nhỏ của một trạng sư tài năng giàu kinh nghiệm để biện hộ cho mình, kiếm tìm sự tha thứ, rửa tội cho mình.

Với ý nghĩa đó, anh ta quả thật vẫn luôn là một kịch gia.


. La chute de Camus (lien) étude - cours et séquences didactiques
. La chute de Camus site Lettres Angevines de Yvon Joseph-Henri (lien)
. L'étranger de Camus (lien)
. La peste de Camus (lien)

Une bibliographie qui semble très complète (lien)


RIEUX VÀ TARROU - NHỮNG NHÂN VẬT PHẢN KHÁNG VÀ TẬP HỢP (BỀ TRÁI VÀ BỀ MẶT TRONG CÁC NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS - CHƯƠNG 2)

PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: MEURSAULT - NHÂN VẬT PHI LÝ
CHƯƠNG 3: CLAMENCE - NHÂN VẬT SÁM HỐI
KẾT LUẬN: CAMUS VẪN SỐNG
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Từ rất lâu trước khi Eudip giết cha và lấy mẹ, cái phi lí đã tồn tại và thách thức hết thảy con người. Sống tức là làm cho cái phi lí sống. Và khi cái phi lí sống cũng chính là khi sự phản kháng sống. Sự phản kháng đó có thể là sự chấp nhận những gì xảy ra như Meursault; có thể là sự đấu tranh không mệt mỏi để giành lại quyền sống như Rieux; và đó cũng có thể là sự phản kháng như của Tarrou trong khát vọng đi tìm một Vị Thánh không Chúa.
Vừa thể hiện tư tưởng về cái phi lí, vừa thể hiện tư tưởng về sự phản kháng, hai nhân vật Rieux và Tarrou trong tiểu thuyết - kí sự Dịch hạch (xuất bản lần đầu năm 1947) đã trở thành hiện thân của chính Camus, tạo nên tính đa thanh cho tác phẩm. Hai nhân vật tưởng như hoàn toàn khác biệt nhưng thực ra lại có rất nhiều nét tương đồng,và có thể coi như sự phân thân của một con người - một con người ít nhiều mang dáng dấp của Camus. Vì vậy, trong chương 2 này, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích song song hai nhân vật trên hai dấu hiệu: bề trái và bề mặt. Bề trái trong các nhân vật chủ yếu là sự bất lực trong cuộc chiến chống dịch hạch; còn bề phải chính là cuộc đấu tranh chống dịch hạch, là sự phản kháng chống lại những phi lí cuộc đời.
Dịch hạch (tiểu thuyết) – Wikipedia tiếng Việt

book cover of   The Plague, The Fall, Exile and The Kingdom and Selected Essays   by  Albert Camus

2.1. Con người bất lực trong cuộc đấu tranh chống dịch hạch
2.1.1. Không gian sống ngột ngạt

Nhìn chung, trong các tác phẩm của mình, Camus luôn thể hiện quan niệm về một sự lưu đày nơi trần thế. Đối với ông, cõi trần vừa là vương quốc tràn ngập ánh sáng và hạnh phúc lại vừa là nơi lưu đày với sự tù túng và u tối tột độ.

Có thể có nhiều cách lí giải cho việc Camus chọn Oran làm địa điểm của toàn bộ sự kiện được đề cập trong tiểu thuyết - kí sự này; nhưng dù sao thì Oran vẫn là một thành phố mang biểu tượng, mà cái trước hết là biểu tượng cho cái bất công, vô vọng và phi lí của cuộc đời. Khác với một cảnh trí tràn đầy ánh sáng và rực rỡ sắc màu trong Người xa lạ, Oran thật sự là minh chứng cho sự bất công về mặt khí hậu. Nó là một thành phố xấu xí “vắng bóng bồ câu, cây cối, vườn tược, một thành phố không nghe thấy tiếng chim vỗ cánh hay tiếng lá cây xào xạc, tóm lại, một nơi hoàn toàn vô thưởng vô phạt” [l1;11] mà mùa xuân thì ẩm ướt, mùa hè thì nóng nực, mùa thu thì tiêu điều.
Trong thành phố đó, những người dân sống trong sầu muộn, cô đơn và máy móc; sống một cách vô hồn trong thành phố vô hồn. Thành phố Oran còn là thành phố của mặt trời; mà mặt trời, như trong những tác phẩm của Camus đã chứng minh rất rõ, là nguồn gốc của cái phi nhân trong cuộc sống. Oran hiện lên với tất cả những gì buồn chán nhất, tẻ nhạt nhất, đơn điệu nhất, vô vị nhất. Thành phố ấy như một nhà tù lạnh lùng, u ám; là một địa điểm thuận lợi cho dịch hạch xâm nhập, phát triển và tàn phá.

Thành phố Oran vốn đã mang bộ mặt lưu đày trong cuộc sống hàng ngày; lại càng trở nên phi nhân hơn trong những ngày dịch hạch. Trước khi dịch hạch tràn đến, Oran đã luôn buồn tẻ, ngột ngạt và u ám. Đến khi có sự xuất hiện của dịch hạch, thì quả thật thành phố ấy đã chìm trong không khí tang thương, hoang mang và sầu thảm. “Mây mù che kín bầu trời”, “biển cũng mất đi cái màu xanh biếc và dưới bầu trời âm u, nó loé lên những ánh bạc hoặc thép sáng chói”, “một không khí buồn đến tê tái bao phủ Oran”, “người ta cảm thấy ít nhiều bị bầu trời cầm tù” [3;48]. Trong những ngày dài ảm đạm, người dân chỉ còn biết đến quá khứ, thậm chí, họ trở nên “bực tức hiện tại, thù nghịch với quá khứ và không có tương lai” [3;99]. Trước ngày dịch hạch, Oran đã giống như một nhà tù, nhưng là một nhà tù vô hình mà người ta có thể ra hay vào bất kì lúc nào; nhưng đến khi thành phố bị cách li thì nó đã biến thành một nhà tù thật, một cái nhà tù mà người ta sống giữa cái chết, giữa sự hoảng sợ và hoang mang. Cái chết lạnh lùng, tàn nhẫn và nhanh chóng đến giật mình. Cả thành phố bị bao phủ trong bầu không khí chết chóc và thất vọng, trong sự điên cuồng và sợ hãi. Người ta không còn hi vọng, không còn niềm tin, không cố gắng. Những cá nhân nhỏ bé phó thác mình cho số mệnh, cho mặt trời và cho dịch hạch.
Suốt cả tiểu thuyết, cái nóng bức của mặt trời đã ám ảnh cả thành phố xấu xí và u buồn đó. “Mặt trời dịch hạch dập tắt mọi sắc màu và xua đuổi mọi niềm vui” [3;151]. Mặt trời đã cầm tù Oran trong sự ngột ngạt và tù túng, mặt trời kích thích mầm dịch lan tràn không kiểm soát được; và mặt trời khiến con người không còn tỉnh táo, vật vờ phó mặc cho những tháng ngày vô định.
Đặt tác phẩm trong tình hình lịch sử những năm 40 đầu thế kỉ XX; có thể thấy Oran chính là hình ảnh thu nhỏ của thế giới và dịch hạch mang ý nghĩa biểu tượng lớn hơn là một dịch bệnh thông thường. Nó là biểu tượng của chiến tranh, của nạn phát xít, khủng bố, của máu và nước mắt. Nó đã huỷ diệt bao xóm bao thôn, đã phá tan bao gia đình yên ấm, đã tước đi thanh bình, hạnh phúc và sự sống của biết bao người. Cho dù nó có qua đi thì những hậu quả mà nó để lại chẳng bao giờ xóa hết, những vết thương mà nó gây ra có lẽ mãi mãi chẳng bao giờ lành, những đổ vỡ có thể là vĩnh viễn. Nó kìm hãm sự phát triển của thế giới. Nó cầm tù cả nhân loại trong đau thương, chết chóc và mất mát. Nó gieo vào lòng người những mầm mống của một thứ dịch hạch trong tâm hồn - một thứ dịch hạch vĩnh viễn không thể chết.

The Plague by Albert Camus
empty
Vintage empty

2.1.2. Con người xa lạ với xã hội

Có thể nói mỗi nhân vật của Camus, dù ít dù nhiều, đều xa lạ với xã hội mà anh ta sống. Với người xa lạ Meursault thì điều đó là một lẽ hiển nhiên, nhưng ngay cả với những con người tập hợp như Rieux và Tarrou cũng vẫn phần nào xa lạ với xã hội.

Người đọc có thể thấy ở Rieux hình ảnh của một anh hùng xả thân trong trận chiến chống dịch hạch, người đọc cũng có thể thấy ở Rieux hình ảnh của một bác sĩ chân chính sáng suốt, nhân ái và dũng cảm. Nhưng cũng ở Rieux, người đọc có thể nhìn thấy hình ảnh của một con người xa lạ và phân li, một con người “chán ngán cái xã hội mình đang sống” [3;23], chọn nghề bác sĩ vì “nó là một nghề nghiệp như những nghề nghiệp khác, một trong những nghề nghiệp ước mong của tuổi trẻ” [3;170], một con người cứu giúp người bệnh đôi khi vì nghĩa vụ và trách nhiệm hơn là vì yêu thương.

Nhìn ở một góc độ nào đó, ông cũng xa lạ với xã hội mà ông đang sống. Ông cô đơn giữa rất nhiều quen thuộc. Ông cũng giống như Tarrou, “kinh tởm đối với bản thân cái trật tự trên đời này” [3;171]. Nhưng, sự xa lạ của Tarrou rất khác với Rieux. Anh ta dường như tự đặt cho mình những qui tắc sống khác biệt. Anh ta mãi mòn mỏi trong một hành trình dài tìm kiếm đời, tìm kiếm người và tìm kiếm chính mình. Anh ta đã hi sinh cả mạng sống cho khát vọng tìm kiếm một vị Thánh không Chúa. Anh ta xả thân vì nhân dân Oran, nhưng anh ta không thuộc về họ, không bao giờ thuộc về họ. Tarrou cũng là một nhân vật phi lí, nhưng là một kiểu phi lí khác với Meursault. Cái phi lí của Meursault là cái phi lí của một con người thụ động trong sự máy móc, đơn điệu của cuộc đời; cái phi lí của Tarrou là cái phi lí của một con người phản kháng đấu tranh với cái trật tự kinh tởm của xã hội. Cái phi lí của Meursault bắt nguồn từ những mâu thuẫn giữa xã hội và một con người trung thực bình thường; cái phi lí của Tarrou lại bắt nguồn từ những mâu thuẫn xã hội của một vị Thánh khước từ sự tồn tại của Chúa. Chính vì thế, trong khi Meursault đại diện cho sự phân li thì Tarrou là hiện thân của tập hợp; trong khi Meursault phản kháng bằng chấp nhận thì Tarrou phản kháng bằng hành động.

the plague albert camus by chunkysimon.


2.1.3. Con người bất lực trong cuộc đấu tranh chống dịch hạch

Dịch hạch đã biến Oran thành một nhà tù lớn. Con người mất ý niệm về thời gian, mất niềm tin vào chính mình. Họ không còn sống nữa, họ chỉ tồn tại theo bản năng. Quá khứ, hiện tại, tương lai đối với họ đều không còn ý nghĩa. Rieux và Tarrou không bị dịch hạch huỷ diệt về mặt tinh thần như bao người khác, nhưng họ phải chịu đựng những đoạ đày về mặt thể xác và cả những đau đớn trong tâm hồn. Sự phát triển của dịch bệnh, không khí oi bức, sự hoảng loạn của người dân, tiếng kêu khóc, mùi của chết chóc và tang thương; tất cả đã khiến cho Rieux và Tarrou bị vắt đến kiệt sức. Sự mệt mỏi đã biến công việc của họ thành một hoạt động máy móc, dập khuôn và nặng nề - thậm chí nó còn mang dáng vẻ của một thứ lao động khổ sai.

Nhưng sự mệt mỏi đó vẫn không đáng sợ bằng những thương tổn trong tâm hồn mà dịch hạch đã gây ra. Chứng kiến sự hoảng sợ, hoang mang của những người khác; chứng kiến và tệ hơn nữa, nhận thức một cách sáng suốt, cái chết cả về thể xác lẫn tinh thần của những người khác, chịu đựng những giày vò bởi sự chia li, đó quả thật là một cực hình. Có lẽ, những giờ phút chứng kiến cái chết của đứa bé nhà Oton sẽ còn ám ảnh các nhân vật của Dịch hạch trong một thời gian dài. Chứng kiến sự đau đớn của đứa bé vô tội ấy từng phút một, cảm nhận được sự phẫn nộ và bất lực trong trận chiến tuyệt vọng ấy, nó như sợi dây thòng lọng ác nghiệt đang bóp nghẹt trái tim mọi người.
Cả Rieux và Tarrou đã cùng phải chứng kiến sự nghiệt ngã ấy. Rồi cuối cùng, đến lượt Rieux phải chứng kiến chính Tarrou trong tình trạng vô vọng tương tự. Rieux sống còn Tarrou thì chết. Cái thực tế ấy như trò đùa của số phận, như sự mỉa mai của cái phi lí. Tarrou chết trong chính những ngày cuối cùng của dịch hạch, anh ta chết chính trong thời điểm của vinh quang và chiến thắng. Một cái chết phi lí như để chứng minh “vinh quang chỉ là điều dối trá”, “hạnh phúc đã ngủ yên trong những ngăn kéo của quên lãng” [16;514]. Tarrou đã thua trong cuộc chiến đấu với cái chết và số phận. Anh ta cũng không thể đi đến cuối con đường tìm kiếm sự bình ổn và tìm kiếm vị thánh không Chúa của mình. Tarrou “chưa bao giờ biết ước vọng”. Với anh ta, “tất cả những gì con người có thể được trong ván bài dịch hạch và cuộc đời là tri thức và kí ức”, nhưng “phũ phàng biết bao khi chỉ sống với những cái mình biết và những cái mình nhớ lại, mà thiếu đi cái mình ước mong” [3;377]. Và có phải chính vì thế mà Tarrou đã thất bại trong khát vọng tìm kiếm sự yên ổn và thánh đức? Cái chân lí thánh nhân mà anh ta vươn tới là một thứ lí tưởng nằm ngoài tầm với. Cái chết của anh ta như sự trả lời của Camus đối với ước nguyện muốn được làm một người bình thường.

Đối diện với dịch hạch, con người phải đồng thời đối diện với cái chết, nỗi đau, sự mất mát, sự phi lí và cũng đồng thời đối diện với dịch hạch hình thành trong chính tâm hồn mình.
Với Tarrou, “tất cả chúng ta đều ở trong tình trạng dịch hạch”, “mỗi người đều mang mầm mống dịch hạch trong mình”. Chính anh ta tự nhận: “tôi vẫn là một kẻ mang mầm mống dịch hạch tuy một mực đinh ninh là chính mình chống lại dịch hạch” [3;329]. Cái dịch hạch mà anh ta nhiễm phải đó là “tôi biết mình đã gián tiếp đồng tình với cái chết của hàng nghìn con người, thậm chí đã gây ra chết chóc vì công nhận là tốt những hành vi và nguyên tắc tất yếu đem lại cái chết” [3;327]. Dĩ nhiên, về vấn đề này, Tarrou đã tỏ ra khá cực đoan. Nhưng, anh ta đã đúng khi nhận thấy trong mỗi con người đều tiềm ẩn mầm mống dịch hạch.

Và trong cuộc đấu tranh với dịch bệnh của tự nhiên, Tarrou và cả Rieux đã phải đối diện với một thứ dịch hạch khác: dịch hạch của tâm hồn. Đó chính là “sự thờ ơ khó chịu bắt đầu dâng lên trong lòng”, “ánh mắt trống rỗng” và “con tim mình dần dần khép kín lại” [3;123]. Dịch hạch đã khiến cho Rieux không còn nhạy cảm, không còn rung động, không còn xót thương được nữa. Trái tim ông khô cằn đi, cử chỉ máy móc hơn. Và ông đã từ địa vị của một cứu tinh trở thành một người không có trái tim.

Nhưng, nếu dựa trên sự phát triển tâm lí, thì quá trình chuyển biến đó cũng là một hiện thực của tâm lí và tình cảm. Chỉ có thế, ông mới “chịu đựng mỗi ngày 20 tiếng đồng hồ chứng kiến cái chết của những con người sinh ra để sống” [3;250]. Và, những tình cảm yếu mềm, những xót thương và một trái tim mà người ta đòi hỏi ở ông có đủ để mang lại cho bệnh nhân sự sống, hay lại càng làm cản trở công việc của ông?

Dịch hạch đến và đi bất ngờ và không gì kiểm soát được. Nó thách thức mọi cuộc đấu tranh, thách thức mọi niềm tin và hi vọng. Nó khiến cho Rieux trở lại nguyên vẹn với tư tưởng hiện sinh : “Vi trùng dịch hạch không bao giờ chết và mất hẳn. Nó có thể nằm yên lặng hàng chục năm trong đồ đạc, quần áo, nó kiên nhẫn đợi chờ trong các căn buồng, dưới hầm nhà, trong hòm xiểng, trong khăn mùi xoa và các đống giấy má và một ngày nào đó để gây ra tai hoạ cho mọi người và dạy họ bài học, dịch hạch có thể đánh thức đàn chuột của nó dậy, và bắt chúng chạy đến lăn ra chết ở một đô thành nào đó đang sống hạnh phúc và phồn vinh” [3;319].

La Peste - Albert Camus by la renata.


2.2. Con người phản kháng và tập hợp
2.2.1. Con người hành động

Trong Dịch hạch, Rieux là một trong hai nhân vật đầu tiên (cùng bác sĩ già Castel) nhận ra hiểm họa dịch hạch và kiên quyết hành động chống lại nó. Trong khi tất cả những người khác còn đang do dự, hoang mang, e ngại thì Rieux đã mạnh mẽ khẳng định: “Điều quan trọng duy nhất là chúng ta ngăn chặn không cho nó tiêu diệt một nửa thành phố” [3;72]. Điều quan trọng nhất, chính là hành động.

Hành động, đối với Rieux và Tarrou, còn đồng nghĩa với việc khước từ mọi niềm tin vào Chúa.

“Nhân loại, mỗi ngày, đang cố bày biện những tiệm tạp hoá mới. Đóng thêm nhiều kệ hàng. Người ta bán đủ loại: đói kém, chết chóc, thù hận, nô lệ, vong thân…
Những đấng tối cao, có lẽ đã ngủ quên cùng với chân lí”.

Cả Rieux, cả Tarrou đều khước từ mọi ảo tưởng trên đời, “cần đem hết sức mình mà đấu tranh chống lại cái chết, và không ngước mắt lên trời nơi Chúa một mực lặng im”.

Từ chối mọi cầu viện nơi Thượng Đế, khước từ sự buông xuôi và phó thác cuộc đời mình cho số phận, luôn hành động để giành lấy quyền làm chủ cuộc đời mình. Đó chính là điểm tiến bộ trong tư tưởng Camus. Hành động, đấu tranh, phản kháng. Trong xã hội phi lí này, những cái đó thật khó khăn nhưng lại không thể thiếu. Cho dù phản kháng trong tuyệt vọng đi chăng nữa thì con người vẫn không được phép dừng lại. Những giây phút cuối cùng của Tarrou chính là minh chứng cho sự phản kháng không mệt mỏi đó. Tarrou biết rằng mình có thể sẽ chết, nhưng anh ta đã chiến đấu cho đến tận hơi thở cuối cùng của mình. Cũng như dù biết rằng dịch hạch sẽ không chịu đầu hàng trước cái gì, thì Rieux và những bạn đồng hành của ông vẫn không một phút giây từ bỏ cuộc chơi. Cho dù những nỗ lực của họ cuối cùng đều vô ích, nhưng Rieux vẫn là một người chiến thắng.



2.2.2. Con người tập hợp

Khác với Meursault luôn thờ ơ với thực tại, xa lạ đối với xã hội và những người xung quanh, nhân vật trong Dịch hạch lại là những nhân vật nhạy cảm, có sự gắn bó chặt chẽ với các cá nhân khác trong xã hội. Sự gắn bó đó, tình yêu thương đó càng được thể hiện rõ hơn trong thời kì dịch hạch; tại thời điểm giữa sống và chết khi con người bộc lộ rõ nhất bức chân dung tính cách của mình.

Trong Dịch hạch, nhân vật Tarrou phần nào đó có nét không thực. Anh ta dường như là một nhân vật tinh thần, một kiểu nhân vật lí tưởng mang tính huyền thoại. Anh ta chủ trương thực hiện một đạo lí lớn nhất: sự cảm thông. Sự cảm thông của anh ta là sự cảm thông của một người đứng trên mọi người, sự cảm thông của một người luôn bình tĩnh, luôn thấu hiểu và luôn tự tin vào chính mình. Anh ta là người đứng lên thành lập tổ chức y tế tình nguyện và đã xả thân trong cuộc chiến với dịch hạch. Tarrou đã phải trả giá bằng cả mạng sống của mình, nhưng anh ta không hề nuối tiếc. Hành động của Tarrou, thật sự là một sự hi sinh cao cả, vì một tấm chân tình trong sáng không vụ lợi; một sự cống hiến không điều kiện.

Còn Rieux lại là một con người không hề có một ảo tưởng hay ước vọng cao xa nào. Trong khoảng thời gian trước khi xảy ra dịch hạch, Rieux là hiện thân của sự nhân ái. Nghề bác sĩ đã buộc ông phải có mối dây liên hệ tình cảm với đồng loại, và trong suốt thời gian hành nghề của mình, Rieux đã phần nào mang dáng vẻ của một vị Thánh nơi trần thế. Ông đã đoạt lại cho bao nhiêu người sự sống, đã mang đến hạnh phúc cho bao gia đình, đã tạo lập những mái ấm cho bao nhiêu số phận. Cho dù mục đích của ông chỉ là hoàn thành tốt công việc của mình, cho dù điều ông quan tâm nhất là sức khỏe của người bệnh chứ không phải hạnh phúc hay sự cứu rỗi trong linh hồn họ, thì vô tình ông vẫn là người mang đến cho người khác hạnh phúc, tình yêu và sự yên ổn. Ông yêu vợ, yêu mẹ; ông chữa bệnh cho người nghèo mà không lấy tiền... Ông cũng đã từng là cứu tinh của bệnh nhân và người nhà của họ. Ông đã sống một cuộc sống bình an và hạnh phúc, là hiện thân của tình yêu và lòng nhân ái.

Cho dù dịch hạch có khiến cho tâm hồn ông trở nên chai sạn, trái tim ông trở nên cứng rắn và thái độ của ông có thể lạnh lùng, nhưng Rieux đã thực sự xả thân để mưu cầu sự sống cho mọi người. Ông không có những lí tưởng cao xa như Tarrou, không mơ ước trở thành một Thánh nhân và cũng không hoài công đi tìm thánh đức; ông chỉ là một con người bình thường với những hữu hạn của con người bình thường, nhưng ông đã hết mình trong sự sáng suốt của một con người bình thường đó.

Cả Rieux, cả Tarrou đều trở thành những con người tiên phong trong cuộc chiến chống dịch hạch. Không bao giờ ngừng đấu tranh, họ đã tập hợp được quanh mình cả một đội ngũ những con người tâm huyết; họ đã truyền cho người khác lòng dũng cảm, sự tận tụy và tinh thần chiến đấu. Sự phản kháng cá nhân sẽ dẫn đến sự phản kháng cộng đồng.

Dịch hạch là tác phẩm biểu tượng cho sự phản kháng. Các nhân vật cũng mang tính biểu tượng. Rieux là biểu tượng của con người phản kháng, một con người hiện sinh xả thân vì đồng loại. Tarrou là biểu tượng của một con người phi lí phản kháng chống lại sự phi lí ấy bằng đạo lí đồng cảm, bằng hành động thánh đức. Chính cậu bé Philip cũng là hiện thân của sự phản kháng, chỉ có điều đó là sự phản kháng tuyệt vọng.

Tác phẩm vừa là biểu tượng cho sự tập hợp và phản kháng, vừa là biểu tượng cho sự phân li và phi lí. Cả Rieux, cả Tarrou đều vừa là hiện thân của sự tập hợp lại vừa có nét phân li, vừa là hiện thân của sự phản kháng lại vừa thể hiện sự phi lí trong xã hội. Tarrou chống lại cái phi lí ấy bằng hành động thánh đức, bằng lí tưởng về vị Thánh không Chúa. Rieux phản kháng bằng chính những hành động bình thường và bằng quan niệm chỉ làm một con người bình thường. Hai nhân vật được coi là người nhất trong tác phẩm tưởng như rất khác nhau nhưng thật ra lại gắn bó với nhau mật thiết. Họ đã là đồng nghiệp và là bạn của nhau; họ đã trở thành bằng hữu trong chính cái thời điểm mà lòng yêu thương dường như thành món đồ xa xỉ. Chính sự gắn bó đặc biệt ấy đã khiến cho trái tim Rieux nhỏ máu trong khi nó đã bị dịch hạch tôi luyện cho rắn lại; đã khiến cho con người cẩn trọng và tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc phòng bị như Rieux phải phá bỏ chính những nguyên tắc đó của mình. Chính cái chết của Tarrou đã giúp cho Rieux đón nhận một cách bình thản sự phi lí của cuộc đời; chính cái chết của Tarrou đã buộc Rieux trở thành một con người hiện sinh toàn vẹn. Chính cái chết ấy càng làm cho Rieux sáng suốt nhìn thẳng vào hiện thực.

albert_camus_tombstone_lourmarin.jpg

2.3. Một số vấn đề thi pháp
2.3.1. Tính nước đôi trong thể loại

Dịch hạch được Camus gọi là một kí sự. Một kí sự về thảm hoạ tại thành phố Oran đã giết chết bao nhiêu sinh mạng. Những con số thống kê, những sự kiện đưa ra mang một tính thuyết phục cao về độ chân thực. Những sự kiện trong tác phẩm đó, dĩ nhiên, cũng tạo cảm giác về những người thực, việc thực. Xác định tác phẩm thuộc thể loại kí sự, kể theo lối kể kí sự; Dịch hạch đã tạo được một ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Lối kể kí sự đó đã thuyết phục người đọc tin vào những hậu quả của thảm họa, tin vào những cảnh báo của tác phẩm và tác giả.

Tuy nhiên, Dịch hạch lại không đơn thuần là một kí sự. Nó mang đậm tính biểu tượng; nó gần với thể loại tiểu thuyết. Nó, thực chất, là một dạng tiểu thuyết - kí sự; hay có thể nói là một tiểu thuyết được viết dưới dạng một kí sự nhằm làm tăng độ thuyết phục cho tác phẩm và giúp cho việc truyền tải tư tưởng của nhà tiểu thuyết.

Các nhân vật trong tác phẩm, chịu sự chi phối của tính hư cấu của tiểu thuyết, là những nhân vật giàu tính biểu tượng. Ngay cả dịch hạch cũng trở thành một nhân vật biểu tượng, chứ không thể hiểu một cách đơn giản theo nghĩa đen. Dù mang đậm tính biểu tượng, nhưng do được kể lại bằng lối kể kí sự, dịch hạch tạo được cảm giác mạnh mẽ về sự tồn tại thật sự của nó.

Chính vì tính nước đôi trong thể loại, Dịch hạch là tác phẩm nặng về giá trị tư tưởng, tạo được thành công lớn cả về mặt nội dung lẫn hình thức. Không những thế, với tính biểu tượng của hình ảnh dịch hạch, tác phẩm còn là một đóng góp nhiều giá trị đối với sự phát triển tiến bộ của cuộc sống con người; giúp con người ý thức được về những dịch hạch cả trong tự nhiên và trong tâm hồn, giúp con người dũng cảm phản kháng và dũng cảm chấp nhận sự thật khi phản kháng hoàn toàn có thể thất bại.



2.3.2. Nhân vật người kể chuyện

Trong Dịch hạch, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất kể lại toàn bộ thảm hoạ một cách khách quan, chi tiết. Đến cuối tác phẩm, anh ta lại tự nhận mình chính là bác sĩ Rieux - người trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh chống dịch bệnh. Nhưng không thể đồng nhất người kể chuyện và nhân vật chính Rieux, nhiều lúc, giữa hai nhân vật đó vẫn có một tấm kính mờ ngăn cách. Hình ảnh bác sĩ Rieux được khắc họa một cách khách quan thông qua hành động, ngôn ngữ và qua một vài nhận xét chủ quan của các nhân vật khác. Người đọc không thể đi vào chiều sâu tâm hồn, tình cảm của ông. Nhưng, cho đến cuối tác phẩm khi người kể chuyện tự nhận mình chính là bác sĩ Rieux, thì người đọc có thể thấy được cả một thế giới nội tâm vô cùng phong phú của nhân vật này. Dĩ nhiên, Dịch hạch mang những đặc điểm của một tác phẩm kí sự; người kể chuyện buộc phải thể hiện được sự khách quan của mình trong tường thuật diễn tiến sự kiện. Nhưng trong Dịch hạch người đọc hoàn toàn có thể hiểu được tâm tư của một người trong cuộc, sự đồng cảm sâu sắc với những đồng bào cùng chung cảnh ngộ. Lo âu, hoang mang, thất vọng, bi quan; sự tù túng, nỗi đau của phân li chia cắt… người kể chuyện đã sống trong từng cảm xúc đó, đã trải qua hết những cung bậc tình cảm đó. Thậm chí, ngay cách anh ta luôn đặt mình vào giữa mọi người, luôn nhìn nhận theo cái nhìn chung của đồng bào chúng tôi đã khiến anh ta trở thành một phần máu thịt trong cơ thể sống của thành phố Oran đó.

MEURSAULT - NHÂN VẬT PHI LÝ (BỀ TRÁI VÀ BỀ MẶT TRONG CÁC NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT CỦA ALBERT CAMUS - CHƯƠNG 1)

PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 2: RIEUX VÀ TARROU - NHỮNG NHÂN VẬT PHẢN KHÁNG VÀ TẬP HỢP
CHƯƠNG 3: CLAMENCE - NHÂN VẬT SÁM HỐI
KẾT LUẬN: CAMUS VẪN SỐNG
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Kể từ xa xưa lắm khi Prométhé cướp lửa cho loài người hay Sisyphe phạm tội vì đam mê cuộc sống; để rồi cả hai phải chịu một án phạt khủng khiếp nhất là phải chung sống suốt đời cùng cái phi lí. Cũng xa lắm rồi kể từ khi Hamlet bị đoạ đày trong phi lí cuộc đời. Cho đến thế kỉ XX, cái phi lí vẫn tồn tại như một tất yếu cuộc sống; buộc con người phải sáng suốt nhìn thẳng vào hiện thực và chọn cho mình một thái độ sống phù hợp. Trước cái phi lí, có người chọn chết, có người chọn sống, cũng có người u mê không hiểu gì. Nhưng, dù muốn dù không, loài người vẫn phải thừa nhận sự hiện hữu của cái phi lí; dù muốn dù không loài người vẫn phải sống chung với cái phi lí. Hiểu cái phi lí, chấp nhận cái phi lí và hãy sống cho đến giây phút cuối cùng, hãy tận hưởng từng phút giây hiện tại; tư tưởng đó, có thể nói, chính là đóng góp quan trọng của Người xa lạ (xuất bản lần đầu năm 1942) đối với nhận thức nhân loại.

Tiểu thuyết Người xa lạ khắc hoạ chân dung nhân vật Meursault trong khoảng thời gian gần một năm kể từ khi mẹ anh ta chết cho đến gần cái chết của chính anh ta. Dựa trên hình thức, có thể phân chia tiểu thuyết thành hai phần riêng biệt: phần một kết thúc bởi cái chết của người Ả Rập không biết tên trên bãi biển; phần hai bắt đầu bằng những ngày đầu tiên trong tù. Còn nếu đi sâu vào bên trong tác phẩm, có thể thấy Người xa lạ là một quá trình vận động tư tưởng của nhân vật chính từ mơ hồ đến sáng suốt, từ thụ động đến chủ động, từ máy móc chịu đựng sự chi phối của cái phi lí cho đến phản kháng chống lại nó. Còn, nếu dựa trên nhận thức của người đọc, thì Meursault từ một người không xa lạ thành một người xa lạ rồi lại thành một người không xa lạ. Soi sáng nhân vật trên hai bề trái - phải, có thể thấy bề trái của nhân vật là một con người phi lí không nhận thức được cái phi lí; còn bề mặt của anh ta là con người phản kháng trong xã hội phi lí đó.

Người xa lạ, Phạm Văn Tuấn
CẢNH VẬT TRONG "NGƯỜI XA LẠ" Sông Hương

1.1. Con người phi lí mơ hồ trong nhận thức
1.1.1. Nhân vật Meursault và không gian tù túng

Meursault là một nhân vật phi lí, sống trong một xã hội phi lí. Chính sự phi lí đã khiến cuộc sống quanh anh ta biến thành một nhà tù rộng lớn và sự giao tiếp giữa những người tù lại bị ngăn trở bởi một tấm kính cách âm trong suốt. Trong cái nhà tù vô hình đó, mỗi tù nhân sống, làm việc, yêu đương… một cách máy móc với sự ngột ngạt, u mê, dồn nén. Nhân vật Meursault cũng phải sống trong không gian tù túng đó; hơn thế nữa, anh ta cùng lúc phải chịu đựng sự giam cầm của cả hai loại nhà tù: một nhà tù ảo giam hãm nhận thức của anh ta và một nhà tù thật giam hãm thân xác nhưng lại trả tự do cho nhận thức của anh ta. Anh ta vừa phải chịu sự ngột ngạt, tù túng của không gian sống - sinh hoạt bình thường; vừa nhỏ bé đến tội nghiệp trong không gian nhà tù và tòa án.

Nếu đọc Người xa lạ dựa trên những hiểu biết về cuộc đời cũng như hệ thống tác phẩm của Camus; có thể thấy nét tương đồng giữa khu phố nghèo Belcour và thành phố Alger nơi Camus sinh sống với khoảng không gian bị bó hẹp của nhân vật Meursault. Một không gian quẩn quanh, tù túng, đơn điệu với những công việc máy móc, con người máy móc, nhịp sống máy móc. Chính nó khiến cho nhận thức của nhân vật cũng trở nên máy móc, buồn tẻ và u mê. Không gian đó chính là không gian hiện thực của cuộc sống ngày nay. Chính nó cũng góp phần quan trọng vào sự hình thành cái phi lí của cuộc đời.

Không những thế, không gian trong Người xa lạ còn là không gian bức bối trong nắng nóng của mùa hè, trong ánh mặt trời chói chang cái “ánh sáng tràn trề” làm phong cảnh “trở nên phi nhân và nặng nề” [9;273]. Mặt trời, trong các tác phẩm của Camus, “làm cho mọi thứ hoá ra những hình ảnh hỗn loạn, không nằm trong ý thức của con người. Con người như bị hôn mê đi dưới ảnh hưởng thôi miên của con mắt vĩ đại treo trên cao kia. Hay có khi ngược lại, chính trong lúc bị mặt trời thôi miên ấy mà con người nhìn ra những sự thật của đời sống, những sự thật không bị những ảo tưởng đời che chắn khiến cho chúng thường mang dáng dấp của những mộng ảo thật trong mắt người” [16;237]. Camus đã từng gọi đó là “bài học của mặt trời” [3;165].

Chính mặt trời đã khiến cuộc sống của con người trở nên tù túng, ngột ngạt, phi nhân; khiến không gian sống của con người trở thành chốn lưu đày. Con người không còn là mình nữa.

Trong Người xa lạ, mặt trời cũng là một nhân vật, đóng vai trò là hiện thân của định mệnh. Trong đám tang của người mẹ, ánh sáng mặt trời chói chang đã khiến cho Meursault bị bủa vây trong cái gọi là “không có lối thoát nào khác” [9;274]. Trên bãi biển mà Meursault đã bắn chết người Ả Rập, cả “một đại dương kim khí sôi sùng sục” [9;306] đã khiến cho Meursault không còn kiểm soát được mình nữa, anh ta trở nên u mê, nặng nề, bị thúc ép; anh ta bắt đầu hành động một cách vô thức và tự mình gõ vào cánh cửa định mệnh để bước vào trong “cõi bất hạnh” [9;307]. Cái nắng nóng ấy đã theo đuổi Meursault trong suốt những thời điểm quan trọng nhất đối với sự bất hạnh và phi lí của anh ta. Meursault đã không thể có cách nào thoát ra khỏi sự truy đuổi đó, cũng như không thể nào thoát ra khỏi cuộc đời phi lí của mình.

Cái oi bức đó, sự dữ dội đó của ánh mặt trời; trong không gian bức bối của toà án và trong sự ngột ngạt của nhà tù; càng khiến cho Meursault trở nên bé nhỏ, cô độc và càng khiến anh ta không có lối thoát nào khác. Anh ta xa lạ với những người tham gia phiên toà; anh ta trở thành một kẻ ngoài cuộc đối với sự phán xử số phận của chính anh ta. Sự sống của anh ta bị quyết định, một phần do mặt trời, một phần do kẻ khác - những kẻ nhân danh “công lí của con người” [9;350]. Đối với cái công lí đó, Meursault là một tội nhân - anh ta bị kết tội “đã chôn mẹ mình với trái tim của kẻ tội phạm” [9;333] - nhưng đồng thời, anh ta cũng là một nạn nhân của chính nó. Anh ta bị cô lập, bị gạt bỏ và cuối cùng bị kết án. Anh ta đã bị biến thành một người xa lạ; một kẻ ngoài cuộc.

Thậm chí, ngay cả khi ở trong tù, anh ta cũng bị cô lập; không cả bạn tù, không niềm tin, không sự thông cảm. Anh ta bị nhốt trong bốn bức tường ngột ngạt, thiếu thốn; anh ta bị tước đoạt dần dần những thói quen cũ để hình thành nên những thói quen mới. Anh ta đã chuyển từ sự máy móc đơn điệu này sang một sự máy móc và đơn điệu khác. Cuối cùng thì cái cảm giác chi phối anh ta mạnh mẽ nhất chính là cảm giác về cái không có lối thoát nào khác, cả về thể xác lẫn tinh thần.

the stranger by albert camus




1.1.2. Kẻ xa lạ với người khác

Meursault đã bị kết án là một người xa lạ và vì anh ta là một người xa lạ. Anh ta đã sống một phần đời của mình một cách bình thường giữa những người bình thường khác. Dĩ nhiên, anh ta có thể đã từng bị đuổi học, từng tỏ ra thiếu tham vọng, từng bị coi là kì quặc .v.v. nhưng chưa một lần nào anh ta bị coi là một người xa lạ đối với cuộc sống và những người xung quanh. Anh ta vẫn sống, vẫn làm việc, vẫn quan hệ với phụ nữ… và tất cả những hành động khác thường của anh ta đều được chính người khác biện hộ, thông cảm. Cho đến khi anh ta bị bắt, bị đem ra đối chất trước vành móng ngựa; tất cả những hành động kì quặc của anh ta lại bị đem ra phân tích, mổ xẻ; và người ta tìm cho những hành động đó những cái tên, những nguyên nhân, những hình phạt. Cuối cùng, từ một người không xa lạ dưới con mắt mọi người, anh ta đã nhanh chóng trở thành kẻ xa lạ, nhanh chóng trở thành một con quái vật, một kẻ giết người máu lạnh.

Quả thật, trong xã hội phi lí đó, Meursault đúng là một người xa lạ. Anh ta xa lạ vì đã không tuân theo những chuẩn mực đạo đức, những qui tắc xã hội thông thường. Anh ta đã không suy nghĩ và hành động theo như quan niệm thông thường của những người khác.

Cuộc sống của anh ta là một cuộc sống gợi lên cảm giác về cái vô nghĩa lí. Anh ta hành động máy móc, vô thức, luôn luôn bị chi phối bởi cảm giác mệt mỏi, buồn chán, đơn điệu. Anh ta hành động chỉ là để giết thời gian và do buồn chán. Khi ở công sở, anh ta làm việc; khi gặp bạn gái, anh ta trò chuyện, xem phim, tắm biển; khi có người hỏi thì anh ta trả lời… Tất cả được thực hiện một cách máy móc, rập khuôn và buồn tẻ. Còn khi ở một mình, Meursault thực hiện những hành động vô nghĩa: đọc một tờ báo cũ, cắt dán một bài anh ta thấy hay hay rồi tiêu tốn cả chiều chủ nhật để quan sát đường phố từ trên ban công. Sự đơn điệu đó khiến cho người khác có cảm giác anh ta chỉ đơn thuần là tồn tại chứ không phải đang sống. Dường như anh ta chỉ hành động theo bản năng, như một con robot được lập trình.

Chính vì thế, trong cuộc sống, anh ta luôn thể hiện một sự thờ ơ nhất định nào đó. Anh ta không hiểu thế nào là tình yêu, dù luôn cảm thấy ham muốn Marie và cảm thấy hạnh phúc bởi sự hiện diện của cô. Sự thờ ơ của anh ta, nhiều lúc trở thành lạnh lùng đến tàn nhẫn. Có thể nếu Marie là một người phụ nữ nào đó khác, cô sẽ cảm thấy thật sự tổn thương trước thái độ của Meursault. Nhưng, có lẽ chính cô là người hiểu anh ta hơn hẳn anh ta, hoặc có lẽ vì một lí do nào đó khác; cô vẫn yêu anh Meursault ngay khi anh ta trả lời không yêu cô. Đối với anh ta, tình yêu “chẳng có ý nghĩa gì” [9;288]; “mọi cuộc sống cũng đều như nhau cả thôi” [9;293].

Trong quan hệ với mẹ mình, Meursault cũng tỏ ra xa lạ: “Hẳn là tôi rất yêu mẹ, nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả” [9;309].

Nhìn ở một góc dộ nào đó, người ta đã có lí khi kết án Meursault là một người vô cảm. Anh ta có thể thấy thiếu vắng mẹ, nhưng không hề đau khổ. Anh ta không thăm mẹ thường xuyên tại nhà dưỡng lão, không nhìn mặt mẹ lần cuối, uống cà phê sữa và hút thuốc trước quan tài người chết, ngủ trong khi canh linh cữu, xem phim hài và hành động yêu đương chỉ một ngày sau khi mẹ mất. Anh ta đã bị kết tội “giết chết mẹ về mặt tinh thần” [9;337]. Anh ta trở thành một kẻ xa lạ với “trái tim trống rỗng” [9;337] trong mắt mọi người.

Quả thật, giữa Meursault và những người khác, có một vách ngăn trong suốt. Không bao giờ Meursault tìm hiểu những cảm nhận của người khác. Dù cho anh ta có đôi lần băn khoăn về thái độ của mọi người đối với mình thì cuối cùng, anh ta vẫn cảm thấy mọi chuyện xảy ra như thế nào cũng được; nếu sự việc khác đi thì cũng có ý nghĩa gì đâu. Thế giới nhân vật xung quanh Meursault, có phải vì thế mà hầu hết toàn những người không tên, không tuổi. Họ xuất hiện trước Meursault bằng chức vụ, bằng những khuôn mặt vô hồn, bằng những dấu hiệu của sự máy móc hay sự tàn phá của thời gian. Một người phụ nữ quen mặt trong quán ăn quen thuộc mà Meursault không biết tên, một nữ y tá ở viện dưỡng lão mà anh ta không nhận ra sự có mặt dù chị ta đứng ngay trước mắt; những cụ già ở viện dưỡng lão mà anh ta cảm thấy như sự có mặt của họ là để phán xử anh ta, rồi cả toà án mà anh ta thấy như mình là một tội nhân bên lề phiên xử… ; tất cả những con người đó, tất cả những sự tồn tại đó, với Meursault, dường như không có ý nghĩa gì, dường như họ tồn tại ở một thế giới khác.

Đối với những con người đó, Meursault là một kẻ giết người máu lạnh, một kẻ phạm tội cả về tinh thần và thể xác. Anh ta đã giết người vì một lí do có phần vô lí: mặt trời. Chính do sự thúc ép của mặt trời mà anh ta trở nên mê muội, vô thức; khiến anh ta bắn bốn phát đạn vào một xác người - bốn phát đạn đẩy anh ta vào trong cõi bất hạnh. Chính bốn phát đạn đã khiến người khác, và cả chính anh ta, không hiểu nổi anh ta nghĩ gì. Anh ta bắn, và không hối hận, không cảm thấy mặc cảm tội lỗi. Anh ta không hề nhận ra mình có tội. Anh ta trở nên xa lạ cũng vì sự u mê đó.

http://mattviews.files.wordpress.com/2007/09/stranger.jpg

1.1.3. Kẻ xa lạ với chính mình

Cho dù không phạm tội giết người, không bị xét xử tại toà án thì Meursault cũng đã sống trong cõi bất hạnh từ trước. Anh ta bất hạnh vì đã sống một cách máy móc, u mê trong sự phi lí của xã hội. Anh ta bất hạnh vì đã thành nô lệ của cuộc sống phi lí ấy. Không phải chỉ giữa anh ta và người khác mới có một tấm kính vô hình ngăn cách mà ngay trong chính anh ta, ngay trong con người anh ta cũng có một tấm kính vô hình ngăn cản anh ta nhận thức về chính mình và nhận thức cuộc sống phi lí của mình. Chính điều đó đã biến anh ta thành một kẻ thụ động.

Camus từng có lần nhận xét rằng Meursault là một con người yêu ánh mặt trời không có bóng mây che. Còn Conor Cruise O’Brien thì lại khẳng định: “Trong tiểu thuyết, Meursault nói dối. Anh ta đã thay Raymông viết bức thư để lợi dụng và làm nhục cô gái. Sau này, anh ta lại nói dối ở sở cảnh sát để minh oan cho Raymông, người đã đánh cô gái này. Thật là sai lầm khi cho rằng Meursault là người “không thể lay chuyển trong sự tôn trọng tuyệt đối sự thật”. Những tình tiết đó chứng tỏ anh ta thờ ơ với sự vật cũng như với sự tàn bạo như chúng ta biết” (dẫn theo [17;744]). Dĩ nhiên O’Brien có những lí do để khẳng định nhận xét đó của mình. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan tác phẩm cũng như quan sát Meursault trong sự vận động phát triển tự thân của anh ta, có thể thấy Meursault không nói dối. Nói một cách chính xác hơn, anh ta không hiểu thế nào là nói dối và anh ta cũng không nắm bắt được sự thật để mà khẳng định anh ta bảo vệ sự thật. Anh ta chỉ là một người thụ động, nhìn sự việc theo cái nhìn của người khác. Anh ta chấp nhận những gì người khác đưa đến cho anh ta, thậm chí cả trên lĩnh vực nhận thức, tình cảm. Trong thâm tâm, anh ta mặc nhiên chấp nhận những gì Raymond nói và coi đó như những gì xảy ra trên thực tế. Anh ta đã làm điều mà bản năng mách bảo anh ta nên làm, theo cái mà anh ta cho là sự thật; một cách hiển nhiên, vô thức, theo cái cách mà cái gì đến thì sẽ đến. Anh ta cũng không cao cả đến mức hi sinh vì sự thật; anh ta không hề có khái niệm nào về sự thật cũng như lừa dối, đúng cũng như sai, nên cũng như không nên. Anh ta thản nhiên tuân theo sự sắp đặt của người khác. Cuộc đời anh ta là cuộc đời của một người máy được lập trình bởi cái ngẫu nhiên, bởi sự phi lí và bởi chính những người máy khác. Anh ta liên tục lặp đi lặp lại câu: Với tôi thế nào cũng được; rồi với tôi chuyện đó cũng vậy thôi; cũng như anh ta sẵn sàng tán đồng với người khác, rất dễ bị thuyết phục: “Quả đúng là thế và tôi công nhận điều anh ta nói” [9;285], “tôi thấy là quả thật…” [9;286]; “đúng như thế và dù sao tôi cũng muốn thế” [9;301]…

Cũng chính vì thế mà anh ta dễ dàng trở thành một con rối trong bàn tay số phận. Anh ta không làm chủ được chính mình và anh ta hoàn toàn tuân theo sự chi phối của những yếu tố khách quan: từ thiên nhiên cho đến con người. Cuộc đời anh ta trải dài trên một chuỗi đấu tranh giữa mặt trời và nước, giữa ánh sáng chói chang ban ngày với sự dịu dàng, êm ái của trăng sao; giữa cái ngột ngạt oi bức ngày hè với sự êm ả mượt mà của đêm tối… Trong lễ tang của mẹ, trên bãi biển, trong phiên toà… Meursault đều bị tác động sâu sắc bởi mặt trời, bởi nóng bức, ngột ngạt. Khi anh ta được đắm mình trong nước, anh ta hoàn toàn cảm thấy hài lòng, thoải mái. Nhưng khi thiếu sự mát mẻ, trong lành đó, anh ta hoàn toàn bị khuất phục bởi ánh mặt trời, chịu sự thúc ép của mặt trời. Anh ta chỉ là công cụ dưới sự điều khiển của một thế lực siêu nhiên. Anh ta là tội nhân nhưng cũng là một nạn nhân khốn khổ, tội nghiệp. Chỉ đến khi bị cách li khỏi cái nắng chói chang thường trực đó, chỉ khi anh ta trở nên chủ động trong hành động và nhận thức, chỉ khi đó anh ta mới không còn bị ám ảnh bởi cái nắng nóng ấy nữa. Nói một cách khác, do không phải chịu sức ép thường xuyên của mặt trời, anh ta mới dần dần làm chủ được mình; và cũng chính vì làm chủ được mình, anh ta không còn bị mặt trời thao túng nữa.

Nhưng trước đó, trong suốt một thời gian dài, Meursault luôn ở trong thế bị động. Thậm chí, anh ta cũng quan sát cảnh vật, con người theo một cách hoàn toàn vô thức. Anh ta nhìn chỉ để nhìn, quan sát rất tinh nhưng không hề có một sự phân tích hay chọn lọc nào. Cảnh trí trong nhà giam, những khuôn mặt già nua, những hoạt động máy móc của người phụ nữ bên bàn ăn… Những quan sát vô thức đó càng góp phần làm cho cuộc sống của Meursault thêm ngột ngạt, khoảng không gian tự do dành cho anh ta ngày càng bị thu hẹp. Anh ta dường như sắp gục xuống trước sức nặng của những hình ảnh chồng chất đó.

Nhưng Meursault đã không hoàn toàn ngã gục và cũng không hẳn đã bị chìm sâu trong sự máy móc hay vô nghĩa của cuộc đời. Bên cạnh những sức nặng muốn đè bẹp anh ta, muốn huỷ diệt anh ta; vẫn còn có những cái nâng đỡ anh ta, giải phóng anh ta khỏi sự đơn điệu.

[The-stranger.jpg]


1.2. Con người phản kháng trong xã hội phi lí
1.2.1. Nhân vật Meursault và mối giao cảm với cuộc sống

Trong mắt Camus, cuộc đời luôn tồn tại với sự khăng khít giữa hai bề trái - phải. Bề trái và bề phải đó của cuộc đời trước hết thể hiện trong thiên nhiên - một thiên nhiên vừa dữ dội, bức bách, gợi lên cảm giác về cái phi nhân và xa cách; lại vừa dịu dàng, chở che, yêu thương và gần gũi.

Cả hai bề đó của khuôn mặt thiên nhiên đã luôn hiện diện trong cuộc sống, trong nhận thức và trong tác phẩm Camus. Đó chính là thiên nhiên nơi xứ sở Địa Trung Hải tràn trề ánh sáng và rực rỡ sắc màu, là bao la mặt biển và xanh thẳm bầu trời mà Camus đã sống và yêu thương. Đó chính là thiên nhiên diễm phước đã soi sáng đến sâu thẳm nhận thức và tận cùng cuộc sống khốn khổ của con người. Đó chính là thiên nhiên dịu hiền đã chở che cho hết thẩy đàn con và thay chúng chiến đấu với cái phi nhân đã được tạo ra bởi mặt trời. Đối với Camus; thiên nhiên luôn là nguồn tài sản vô giá, là sự thôi thúc con người cởi mở lòng mình, thôi thúc họ yêu thương và khát sống. Thiên nhiên rực rỡ và dịu dàng ấy, sự huyền bí của những đêm đầy sao ấy, sự mơn trớn ngọt ngào của mùi vị đêm hè ấy… đã khiến cho con người trở nên người hơn, sống thật với chính mình hơn; khiến con người đối diện với chính mình và cuộc đời, cảm nhận tất cả chảy trôi của cuộc sống, để thấy rằng “mỗi giờ khắc thiếp ngủ sẽ là một giờ khắc đánh mất ở cuộc đời” [3;120]. Tư tưởng hiện sinh ấy, bắt nguồn từ chính những ngày thơ ấu của một chú bé nơi xóm nghèo Belcour, người đã từng tận hưởng đến tận cùng sự im lặng của thiên nhiên và sự cô đơn “nâng thêm giá trị cho mỗi sự vật” [3;74]. Trong màn đêm huyền bí, con người đã nhận chân ra những sự thật cuộc đời. Chính vào một đêm hè đầy sao, Meursault “cảm thấy mình sẵn sàng sống lại tất cả”[9;354], “lần đầu tiên tôi mở lòng đón nhận sự dửng dưng dịu dàng của thế giới. Những mùi vị của đêm, của đất và của muối làm mát hai thái dương tôi” [9;354]. Và Meursault, chính giây phút đó, đã thấu hiểu toàn bộ tính chất phi lí của cuộc đời và chấp nhận sự phi lí đó; cũng đồng nghĩa với việc anh ta đã phản kháng chống lại sự phi lí.

Bầu trời đêm cũng là một tình nhân của Meursault; là người bảo trợ và là đồng sự của anh ta. Bầu trời đêm, cũng như biển, là một phần cuộc sống của Meursault. Anh ta tìm sự bình an trong biển, hành động yêu đương trong biển và tìm tự do trong hành động đến với biển. Có thể Meursault thờ ơ và bị động trong rất nhiều trường hợp; nhưng đứng trước bề mặt của thiên nhiên, anh ta đã giao cảm với một sự tinh tế đặc biệt, một sự tinh tế mà đôi khi có thể thành xa lạ với rất nhiều người; sự tinh tế của một lòng háo sống.

Trong bề trái của nhân vật Meursault, anh ta là một con người xa lạ với xã hội, một kẻ thờ ơ, sống một cuộc sống máy móc, đơn điệu, buồn chán. Tưởng như anh ta hoàn toàn vô cảm, dửng dưng với cả sự sống của mình. Nhưng hoàn toàn không phải thế. Anh ta vẫn khao khát được tự do, vẫn mong được sống. Thậm chí, ngay cả khi anh ta bình thản chấp nhận cái chết, thì đó hoàn toàn không phải là do anh ta chán sống. “Có lòng háo sống nào mà không kèm theo một mối tuyệt vọng” [3;119] ?

Những âm thanh thân thuộc của thành phố anh ta yêu, một khung trời chiều với mùi vị của mùa hè, biển, ánh sáng, giọng cười và những chiếc áo váy của Marie… Đó là cuộc sống, là những gì Meursault đã yêu, đã quan tâm và lưu giữ. Những kí ức đã ngủ quên trong tâm trí anh ta suốt một thời gian dài và có thể chẳng bao giờ được đánh thức, nếu như con người xa lạ Meursault ấy không bị bứt ra khỏi sự đơn điệu và máy móc của cuộc sống hàng ngày, không phải đối diện với thực tế là anh ta có thể không còn được sống. Anh ta đã hồi tưởng chỉ để giết thời gian, nhưng chính những hồi tưởng đó lại chứng minh anh ta đã sống, đang sống và nó cũng chứng minh anh ta không phải là người hoàn toàn xa lạ với biết bao người xung quanh.

book cover of   The Outsider   by  Albert Camus

1.2.2. Sự không xa lạ trong mối quan hệ với người khác

Với nhiều người, Meursault là một người xa lạ, nhưng đối với những người bạn của anh ta, anh ta không hề bị coi là xa lạ. Hiển nhiên đối với Meursault, ý nghĩa của từ bạn không giống như quan niệm của nhiều người khác. Nhưng cũng hiển nhiên là Meursault đã được rất nhiều người coi là bạn; hơn thế nữa, được coi là một con người. Hơn một lần, Meursault khẳng định anh ta hoàn toàn giống như mọi người khác. Anh ta cũng từng có lúc “có một thèm muốn ngu xuẩn là được khóc, bởi vì tôi cảm thấy tất cả những người ngồi đây sao mà ghét mình đến thế” [9;328]. Dưới mắt nhiều người, anh ta là một con người lương thiện, tử tế, một người con có hiếu và một nhân viên tận tụy. Nếu không có những phát súng oan nghiệt trên bãi biển, có lẽ Meursault vẫn sống như bao người bình thường khác. Anh ta sẽ làm việc tại Pari, và sẽ làm việc chăm chỉ như trước nay vẫn thế; anh ta sẽ cưới Marie - dù anh ta cảm thấy gắn bó với cô vì những ham muốn thể xác chứ không phải vì một thứ tình yêu mà với anh ta thật vô nghĩa lí. Anh ta sẽ vẫn là bạn của Raymond và Céleste; vẫn quan tâm đến lão Salamano và con chó tội nghiệp .v.v. Nói tóm lại, anh ta vẫn sống, vẫn làm việc, vẫn yêu đương. Và sẽ chẳng thể bị kết tội vì đã không khóc trong đám tang của mẹ.

Đối với công tố viên, bồi thẩm đoàn hay thẩm phán, Meursault là kẻ giết chết mẹ về mặt tinh thần; đối với giám đốc viện dưỡng lão, Meursault có vẻ như một người vô cảm. Nhưng, hơn một lần, Meursault đã khẳng định mình yêu mẹ (dù lời khẳng định ấy cũng mang vẻ mơ hồ của chính nhận thức của anh ta), và anh ta vẫn cảm thấy trống trải khi thiếu vắng mẹ.

Nếu chỉ thuần tuý dựa trên văn bản, không chỉ Meursault mà những người bạn của anh ta cũng đã giải thích cho thái độ của anh ta đối với mẹ mình, từ việc anh ta phải gửi mẹ vào viện dưỡng lão cho đến việc anh ta không thường xuyên đến thăm mẹ và cuối cùng là thái độ trước cái chết của mẹ. Đúng như Salamano đã nói: phải thông cảm cho anh ta. Tình cảm của hai mẹ con Meursault là một thứ tình cảm câm lặng, đã hình thành nên một loại “hòn đảo im lặng” [9;317] giữa hai mẹ con và hình thành nên một cách sống theo thói quen. Đưa mẹ vào viện dưỡng lão, đối với cả Meursault và mẹ anh ta, chỉ là một hành động xóa bỏ một số thói quen cũ để thiết lập nên những thói quen mới. Một khi đã quen với những cái mới đó rồi thì những thói quen cũ lại trở thành vô nghĩa.

'The Outsider' - Albert Camus by letslookupandsmile.
Cover drawing by Paul Hogarth
First published in Penguin 1961
Reprinted 1965


1.2.3. Con người phản kháng trong xã hội phi lí

Như đã nhận xét, Meursault là một nhân vật phản kháng trong sự phi lí, một sự phản kháng đi từ vô thức đến ý thức, từ tự phát đến tự giác. Anh ta đã phản kháng bằng cách giao cảm với cuộc sống và gần gũi với con người. Đó là những sự phản kháng một cách vô thức, khi Meursault chưa hề nhận thức được về cái phi lí. Còn khi đã ý thức được về nó rồi thì anh ta phản kháng bằng sự không chấp nhận nói dối và bằng chính sự thấu hiểu và chấp nhận cái phi lí.

Meursault, như lời khẳng định của Camus, là một con người sẵn sàng chết cho sự thật. Có lẽ, hành động chết cho sự thật ở đây không mang ý nghĩa cao cả như trong quan niệm thông thường. Meursault đã chết vì anh ta nói thật, nhưng cái chết của anh ta không phải để tuyên dương sự thật, không phải để vinh danh sự thật. Anh ta đã chết vì anh ta chọn một lối sống mà người ta phải ghi nhớ một bài học đắt giá từ cái phi lí của cuộc đời: “Người ta đừng có bao giờ đóng kịch” [9;321].

Meursault đã chung thành với lối sống đó cho đến tận phút cuối cùng. Suốt từ đầu tác phẩm, Meursault đã luôn nói thật những gì mình nghĩ, mình cảm thấy. Cái tính thật đó, nhiều khi, đã biến anh ta thành một con người lạnh lùng, tàn nhẫn, một kẻ tội phạm - dù cho anh ta không thật sự hiểu những từ này.

Đến khi bị bắt vào tù và phải đứng trước vành móng ngựa, khi bị bắt buộc phải chọn lựa giữa nói dối để được sống và nói thật để phải chết, anh ta đã chọn việc nói thật. Anh ta đã được biết về những bất lợi mà quyết định đó mang đến cho anh ta. Anh ta cũng khao khát được sống, được tự do. Anh ta cũng mơ ước có thể kháng án thành công. Nhưng, cái tự do mà anh ta mơ tới đó là cái tự do trong khi vẫn không hề đóng kịch. Tuy nhiên, thật ra, Meursault không hề ý thức là mình có tội. Anh ta không nhận thấy rằng khi anh ta nói lên sự thực chính là anh ta đã khẳng định sự phạm tội của mình.

Còn khi đã nhận ra cuộc đời là phi lí thì đồng thời anh ta cũng nhận ra “cuộc đời không đáng sống” [9;347], nhận ra cái chết là một lẽ tất nhiên; và cũng chính khi đó, anh ta sẵn sàng sòng phẳng: “Người ta chỉ cho tôi biết rằng tôi là một tội phạm. Tôi phạm tội thì tôi phải trả giá, người ta không thể yêu cầu tôi gì hơn nữa” [9;350]. Và, khi đã chấp nhận điều đó, anh ta không cần phải nói dối để được sống. Anh ta chấp nhận, và nghĩa là anh ta phản kháng.

Phải mất một thời gian dài, Meursault mới hiểu về cái phi lí của cuộc đời, cho dù anh ta đã sống cùng nó lâu đến thế. Nhưng, nếu như quả thật “người ta chỉ sống thật sự vài giờ trong cuộc đời mình mà thôi” [3;40] thì có lẽ với Meursault; những giờ sống thật sự đó là những giờ phút anh ta nhận ra và chấp nhận cái phi lí của cuộc đời.

Anh ta đã chọn cho mình một cách sống và sẵn sàng chết vì cách sống đó. Nhưng, anh ta đã sống, sống thật sự chứ không phải như những người khác - những người “không thể tin chắc mình đang sống” bởi vì họ “sống như một xác chết” [9;352]. Anh ta thật sự sống, vì anh ta “tin chắc mọi sự, nắm chắc được sự thật” [9,352]. Anh ta trở nên hoàn toàn sáng suốt, và anh ta cảm thấy đã có được hạnh phúc và vẫn còn đang được hạnh phúc. Anh ta không cần tìm đến sự an ủi nơi Chúa Trời. “Hạnh phúc nằm trọn trên cõi đời này khi con người đã sáng suốt từ khước mọi không tưởng, mọi ảo vọng, mọi an ủi nằm ở ngoài cuộc đời” (Trần Thiện Đạo, dẫn theo [3;141]); “quê hương tôi nằm trọn trên cõi đời này” [3;128]; và hạnh phúc là khi nhận ra điều đó, là khi nhận được sự diệt vong tất yếu của sự vật. “Một giờ nữa, một phút, một giây, ngay lúc này đây, biết đâu mọi vật có thể bỗng nhiên đổ vỡ” [3;118]. Và ngay trong giây phút này của hiện tại, khi cái khoảnh khắc diệt vong vẫn chưa xuất hiện, con người có thể hạnh phúc khi sống hết mình. Và, “tinh thần can đảm tột bực, vẫn cứ là ở chỗ mở rộng con mắt ra mà nhìn ánh sáng đó cũng như nhìn thẳng cái chết” [3;130]. Meursault đã có được cái tinh thần can đảm tột bực đó; anh ta đã hạnh phúc, đã thanh thản. Cái chết không còn đáng sợ nữa. Sự phi lí cũng không còn nặng nề như trước nữa.

Có thể có người cho rằng những phản ứng của Meursault hơi cực đoan, thái quá; rằng lẽ ra anh ta có thể làm thế này mà không làm thế kia... Nhưng anh ta là một nhân vật phi lí. Và sự bình thản của Meursault trước cái chết, sự sẵn sàng đón nhận tất cả những gì xảy đến đó; dù sao đi nữa, vẫn mang những ý nghĩa tích cực nhất định. Anh ta hiểu rằng cuộc đời không đáng sống, nhưng con người vẫn phải sống hết mình. Khi không tin được vào tương lai hay những ảo mộng thường tình của con người, thì hạnh phúc chính là nằm trọn vẹn trên cõi đời hiện tại này đây. “Làm sao tách rời con người và tính chất phi lí của họ?” [3;129]. Con người chỉ có thể phản kháng để không trở thành nô lệ cho cái phi lí đó. Con người thức tỉnh, thức tỉnh để suy tư, nhận thức về cái phi lí, để chấp nhận - đồng thời phản kháng; và hạnh phúc như Sisyphe hạnh phúc.

http://a1204.g.akamai.net/7/1204/1401/05042610011/images.barnesandnoble.com/images/9560000/9567076.jpg


1.3. Một vài vấn đề thi pháp
1.3.1. Cốt truyện

Người xa lạ được chia thành hai phần và sự phát triển của các sự kiện được xoay quanh ba cái chết. Phần thứ nhất được bắt đầu bằng thông báo về cái chết của người mẹ nhân vật chính Meursault và kết thúc bằng cái chết của một người Ả Rập không rõ tên trên bãi biển. Phần hai bắt đầu bằng những ngày đầu tiên sau khi Meursault giết người và kết thúc bằng một cái chết trong tương lai gần của anh ta. Meursault đã bị bắt vì cái chết thứ hai và bị kết án bởi cái chết thứ nhất. Ba cái chết đã chi phối toàn bộ các tình tiết trong tác phẩm, trở thành sợi dây liên kết hai phần lại với nhau.

Mặc dù chia thành hai phần rất rõ ràng, nhưng trong khi phần I là một sự dàn trải các sự kiện mang đậm tính khách quan của biện pháp thống kê thì phần II lại là sự chồng chéo giữa quá khứ, hiện tại và những dự cảm về tương lai. Phần I được viết bằng lối viết nhật kí, luôn có sự xác định rõ ràng hôm nay - hôm qua (Tất nhiên, nếu đọc kĩ, có thể thấy cái hôm nay đó thực chất cũng là một hôm nay trong hồi tưởng, vì “bây giờ tôi vẫn còn giữ lại trong đầu đôi ba hình ảnh về ngày hôm đó” [9;274]). Phần II lại là sự dồn nén của thời gian và sự kiện, sự co thời gian dẫn đến những đoạn nhảy cóc trong nhận thức và sinh hoạt của Meursault. Trong phần II, nhân vật được sống lại những sự kiện đã được diễn ra trong phần I, nhưng không phải là những hình ảnh rập khuôn, những sự lặp lại buồn tẻ. Ở phần I (dựa trên tính chất của lối viết nhật kí), sự việc được kể lại một cách khách quan mang tính thống kê, đôi khi gây cảm giác dài dòng, buồn tẻ. Ở phần II, sự kiện lại được nhìn nhận theo cái nhìn chủ quan của người khác, được phân tích mổ xẻ và mang những ý nghĩa khác nhau. Đó là những sự kiện bị phán xử. Trong cả hai phần, thời gian đều được diễn ra trên trục tuyến tính; nhưng trong khi ở phần I, các sự kiện được kể lại đã diễn ra trong khoảng 3 tuần thì ở phần II, với số trang tương đương phần I, lại miêu tả các sự kiện trong gần 11 tháng - mà phần lớn là sự nhắc lại những sự kiện đã diễn ra trong phần I. Nhìn qua tưởng như không có sự cân xứng, nhưng thật ra, chính cách tổ chức cốt truyện như thế đã tạo cho Người xa lạ có được tính nước đôi và tính triết lí sâu sắc.

1.3.2. Ngôn ngữ

Ngay từ tên đề, có thể thấy tiểu thuyết viết về một người xa lạ. Sự xa lạ ấy còn được thể hiện rất rõ nét qua ngôn ngữ tác phẩm.

Các câu văn được viết một cách ngắn gọn, dường như tác giả đã cố gắng triệt tiêu một cách tối đa những sắc thái tình cảm có thể bộc lộ qua câu chữ. Mỗi câu văn, giống như Sartre đã nhận xét, là một hòn đảo riêng biệt trong quần đảo xa lạ. Câu chuyện được kể lại bởi chính Meursault - người kể chuyện ngôi thứ nhất. Thế nhưng trong cả tác phẩm đó, người kể chuyện lại dường như là một người bàng quan, một người ngoài cuộc quan sát sự việc bằng một thái độ ơ hờ.

Toàn bộ phần I của tiểu thuyết được viết theo kiểu nhật kí, nhưng là một nhật kí được viết bằng một giọng văn trắng. Meursault chỉ thuần tuý liệt kê các sự kiện, và liệt kê một cách chi tiết đến mức tạo thành một sự chồng chất các hành dộng khiến cho người đọc có cảm giác như đang xem một đoạn băng theo dõi người máy. Meursault không hề có một giải thích nào cho hành động của mình; chính anh ta cũng không hiểu và không cần, không muốn tìm hiểu mình muốn gì, nghĩ gì, cần gì, nên làm gì. Anh ta như kẻ lữ hành cô độc trong hoang mạc của sự hôn mê.

Giọng văn đó, một mặt, khiến cho người đọc thật sự cảm nhận sự xa lạ của nhân vật, sự cô đơn lẻ loi của anh ta trong xã hội; mặt khác, nó lại mang đến cho tiểu thuyết một sự khách quan đặc biệt để người đọc có thể và buộc phải tự mình khám phá chiều sâu tâm hồn và tính cách nhân vật chính.

Người xa lạ là một tiểu thuyết - triết lí được kể lại bởi nhân vật chính trong tác phẩm. Dường như các đối thoại đã được người kể chuyện gián tiếp hoá, nên người đọc không dễ dàng nhận ra đặc điểm ngôn ngữ - tính cách nhân vật. Nhưng, chỉ cần qua những đoạn đối thoại được kể lại của Meursault, có thể nhận thấy sự mơ hồ, bị động và xa lạ của anh ta đối với toàn thể xã hội.

Trong Người xa lạ, nhân vật sử dụng rất nhiều từ chỉ sự mơ hồ: hình như, chắc là, có lẽ… cũng như rất nhiều hình thức phủ định: không biết, không chắc, không hiểu… Cả một tập hợp từ đó đã mang đến cho tiểu thuyết một sự mơ hồ nào đó khiến cho chính người đọc dường như cũng bị lạc vào trong một mê cung không có lối thoát nào khác của các hành động - mà Meursault chỉ thuần tuý thuật lại chứ không hề giải thích lí do hành động. Những câu nói của Meursault ngắn gọn, khô khan và xa cách; tạo cảm giác đó là những đối thoại của một người không tham dự cuộc chơi, không muốn tham dự cuộc chơi.

Chính vì vậy, nhân vật Meursault, tưởng như là một con người đơn giản, một kẻ phạm tội khốn khổ đã được ánh mặt trời chiếu rọi đến những góc sâu kín của cuộc đời, nhưng thật ra lại là một con người không hề đơn giản và dễ hiểu.