Subscribe

RSS Feed (xml)

Powered By

Skin Design:
Free Blogger Skins

Powered by Blogger

Thứ Ba, 26 tháng 5, 2009

THẢM KỊCH TẠI THÀNH PHỐ PHÙ THỦY


[ADAM R. JONES PHOTO]


The Witch House on Halloween!

Mùa hè 1692, thành phố Salem sục sôi trong bầu không khí căng thẳng của sự tố cáo, săn lùng, xét xử và hành quyết. 19 người và hai con chó bị treo cổ, gần 200 người bị bắt giam và hàng chục người ra đi lặng lẽ và oan ức với một tội danh chung: là phù thuỷ! Gần 400 năm đã trôi qua, sự thật về một phần lịch sử đau thương nhất của Salem mãi là một ẩn số. Liệu có tồn tại ma thuật thật sự, hay vụ án Salem nổi tiếng chỉ là sản phẩm từ sự kết hợp không may của cuộc chiến tranh biên giới, điều kiện kinh tế, những tranh chấp trong giáo hội, nỗi buồn chán và sự dại dột của tuổi trẻ, cùng với lòng ghen tuông đố kị của những con người bình thường? Bất chấp mọi đúng sai, những cuộc săn lùng phù thuỷ đã viết nên một trang sử buồn, và vụ án Salem mãi vẫn là lời nhắc nhớ cho thế hệ sau về những sai lầm lẽ ra không được phép phạm phải, cũng như về ý thức của mọi người trong nỗ lực bảo vệ và cải tiến hệ thống luật pháp.

Chiếc bánh ma thuật

Năm 1688, Samuel Parris được mời đến làm mục sư tại Salem, bang Massachusetts nước Mỹ, một ngôi làng đang trên đà phát triển kinh tế nhưng lại chìm đắm trong bầu không khí nhạy cảm của sự tranh giành ảnh hưởng giữa phái Putnam và Porter cùng những bất ổn trong cộng đồng dân cư do số người tị nạn trong cuộc chiến với những người da đỏ Wabanakis ngày càng đông. Cùng đi với Parris có vợ, cô con gái 6 tuổi Elizabeth, đứa cháu Abagail và hai vợ chồng người nô lệ Indian John và Tibuta.

Trong những ngày lạnh giá tháng 2 năm 1692, Elizabeth và Abagail mắc phải căn bệnh lạ: sốt, chân tay co rút và có những hành vi khác thường. Bất lực trong việc chẩn đoán, bác sĩ William Griggs lớn tiếng tuyên bố căn bệnh có lẽ bắt nguồn từ một nguyên nhân siêu nhiên nào đó. Trong một ngôi làng nơi vẫn tin vào ma quỷ và phép thuật, người ta dễ dàng cho rằng những đứa bé đã bị phù thuỷ yểm bùa. Trong nỗ lực tìm ra “phù thuỷ”, Tibuta làm một chiếc bánh mỳ bằng lúa mạch đen trộn nước tiểu của các cô gái, hi vọng nó chỉ ra danh tính của kẻ tấn công. Nhưng người hàng xóm Mary Sibley khẳng định Tibuta đã phù phép chiếc bánh mỳ và ném cho chó ăn, như một cách để gửi những lời khẩn cầu ma quỷ. Tibuta, người vẫn thường kể những câu chuyện dân gian quê hương của bà về tiên tri, tà thuật và phù thuỷ, trở thành nghi can lớn nhất cho những điều không thể giải thích nổi đó. Bà bị bắt giam cùng người ăn xin Sarah Good và bà già Sarah Osborn cáu bẳn. Ban đầu, khi Elizabeth và Abigail tuyên bố bị con ma của ba người phụ nữ này tấn công, nhiều người cho rằng đó chỉ là câu chuyện bịa. Nhưng, nhiều cô bé khác cũng lên tiếng tố cáo, và cả hai bậc phụ huynh, Anne Putnam và Mercy Lewis, cũng khẳng định họ nhìn thấy “những phù thuỷ bay xuyên qua làn sương mù mùa đông.” Sự ủng hộ của gia đình Putnam quyền thế trở thành một sự hậu thuẫn lớn để phát động một cuộc chiến chống lại ma thuật.

Trước những cáo buộc, ngày 01/03/1692, quan toà Jonathan Corwin quyết định xét xử những phù thuỷ này tại quán trọ Ingersoll. Tuy nhiên, vì có quá đông người tham dự, phiên xử được chuyển tới phòng họp của làng. Tại đây, các cô bé kể lại mình đã bị tấn công bởi bóng ma của ba người phụ nữ, và ngã xuống, quằn quại khi họ xuất hiện trước toà. Những người khác cũng kể thêm rằng sau khi một trong ba người này đến thăm họ, bơ và phó mát trong nhà bị hỏng một cách bí ẩn, gia súc sinh ra bị dị dạng.

Sau một thời gian đầu nhất định phủ nhận mọi tội lỗi, có lẽ lo sợ trở thành kẻ giơ đầu chịu đáng, cuối cùng Tibuta thừa nhận quỷ Satan - một người đàn ông cao lớn đến từ Boston, lúc dưới hình dạng một con chó khổng lồ, lúc lại trong lốt một con heo đực - từng yêu cầu bà kí tên vào quyển sách của ông ta và làm việc cho ông ta. Khi cố gắng chạy đến chỗ mục sư Parris cầu xin giúp đỡ, bà đã bị con quỷ chặn đường. Không những thừa nhận mình là phù thuỷ, Tibuta còn tuyên bố bà và 4 phù thuỷ khác, gồm cả Good và Osborn, đã cưỡi chổi bay trong không trung. Lời thú tội của Tibuta đã thành công trong việc đưa bà từ vai trò của người giơ đầu chịu báng thành nhân vật trung tâm trong một đám đông những kẻ bị kết tội. Tibuta bị giam giữ hơn một năm, và sau đó bị bán làm nô lệ.

Thành phố phù thuỷ

Sau khi ba người phụ nữ đầu tiên bị bắt và kết án, các cô gái trẻ lại tiếp tục tuyên bố bị tấn công bởi bóng ma của nhiều phụ nữ khác. Thậm chí, Dorcas Good, đứa con gái 4 tuổi của Sarah Good, cũng trở thành kẻ tình nghi khi ba đứa trẻ khăng khăng chúng đã bị bóng ma của Dorcas cắn. Cô bé bị bắt, bị tra hỏi và bị giam trong tù suốt 8 tháng, tận mắt chứng kiến những giờ phút cuối cùng dưới giá treo cổ của mẹ mình.

Nhà tù trở nên chật kín chỗ và ngôi làng chênh vênh trên bờ vực của sự hỗn loạn. Người ta bắt đầu cảm thấy cần phải đẩy nhanh tiến độ xử án. Giờ đây, như một cách để tránh giá treo cổ, nhiều kẻ tình nghi thừa nhận đã tấn công những cô gái theo lệnh của quỷ và bay đi tham dự lễ Sabbath của các phù thuỷ trong cánh đồng vắng.

Trước quy mô ngày càng lớn của vụ án, một toà án mới được thành lập, chuyên xử các vụ về phù thuỷ. Quan toà Cotton Mather thuyết phục toà án chấp nhận những lời thú tội và “những chứng cứ về các bóng ma” mà nạn nhân cung cấp. Đề nghị của Mather được chấp nhận, toà án còn cho phép cái gọi là “kiểm tra sự tiếp xúc”, yêu cầu bị cáo chạm vào những người tố cáo để xem liệu những tiếp xúc của họ, được cho là những cú chạm của phù thuỷ, có làm sự đau đớn và biến dạng ngừng lại hay không. Họ cũng cho phép khám người để tìm những bằng chứng về “dấu hiệu của phù thuỷ” trên cơ thể những người bị kết án. Các mục sư được đề nghị trợ giúp cho thẩm phán. Những lời nói miệng, những tin đồn nhảm, những câu chuyện, những tuyên bố không được xác nhận, những phỏng đoán đều được chấp nhận trở thành bằng chứng. Tất cả những người bị kết tội là phù thuỷ đều không có cố vấn pháp luật hợp pháp, không có những nhân chứng bên bị và cũng không được kháng án. Tuy bị cáo có quyền tự mình phát biểu, đưa ra các bằng chứng và trực tiếp thẩm vấn các nhân chứng, nhưng rõ ràng, hiệu quả của nó đòi hỏi sự thông minh và tầm ảnh hưởng của họ trong cộng đồng.

Phù thuỷ bị xét xử đầu tiên là Bishop, một chủ quán rượu vốn không được lòng dân làng. Tại phiên toà, một người dân khai rằng ông ta nhìn thấy con ma Bishop ăn trộm trứng và sau đó biến thành một con mèo. Hai phù thuỷ khác cũng thừa nhận Bishop là một người trong số họ. Đoàn bồi thẩm sau khi khám xét Bishop đã tuyên bố họ phát hiện thấy có một “mẩu thịt lồi”. Nhiều người khác khai đã bị bóng ma của Bishop tấn công hay cho rằng bà ta phải chịu trách nhiệm về những rủi ro đổ xuống đầu bọn họ. Thậm chí có người tuyên bố khi đi qua cổng của phòng họp Salem, Bishop đã nhìn lên toà nhà và khiến cho một phần của nó đổ sập xuống. Ngày 10/06/1692, Bishop bị đưa tới đồi Gallows và bị treo cổ.

http://www.law.umkc.edu/faculty/projects/ftrials/salem/jacobstrial.jpg

Sau Bridget Bishop, nhiều người khác bị tố cáo, trong đó có cả những nhân vật đáng kính như Rebecca Nurse, một phụ nữ ngoan đạo, thành viên trong gia đình Topsfield từ lâu đã có xích mích nghiêm trọng với gia đình Putnam. Ann Putnam và Abagail Williams khai trước toà đã từng bị bóng ma của Nurse tấn công, còn bà Putnam tiết lộ Nurse đã yêu cầu bà ta kí vào quyển sổ của Quỷ và đánh bà ta. Chứng cứ quan trọng nhất mà những thành viên gia đình Putnam đưa ra là Benjamin Houlton đã chết sau khi bị Nurse la mắng vì con lợn của ông đào bới trong vườn nhà bà. Nurse được kết luận vô tội, nhưng thẩm phán Stoughton đã buộc bồi thẩm đoàn phải xét xử lại. Ngày 19 tháng 09, Nurse cùng 4 phù thuỷ khác bị treo cổ trên đồi Gallows.

Burroughs, người sống ở Main năm 1692, bị tố cáo là thủ lĩnh của đám phù thuỷ. Ann Putnam khẳng định Burroughs đã yếm bùa những người lính của ông ta trong suốt chiến dịch hành quân thất bại chống lại những người Wabanakis năm 1688-89, sự kiện đầu tiên trong một chuỗi những thảm bại của quân đội được đổ lỗi cho liên minh giữa người da đỏ và quỷ dữ. Vụ kết án Burroughs sau này được xem như bắt nguồn một phần từ mong muốn của các quan toà để tránh trách nhiệm trong sự phòng thủ biên giới yếu kém của họ. Khi bị đưa đến đồi Gallows, Burroughs vẫn khăng khăng mình vô tội và đọc kinh một cách rành rẽ, một điều mà người ta cho là các phù thuỷ không thể làm được. Đám đông trở nên “vô cùng cảm động” đến mức Cotton Mather buộc phải can thiệp, và nhắc lại rằng Burroughs đã có cả ngày biện hộ tại toà án và ông ta đã để mất cơ hội.

Cuộc săn lùng bắt đầu vượt ra ngoài phạm vi ngôi làng. Đầu mùa thu 1692, quy mô của nó đã trở nên rộng lớn đến mức ngay cả những người khơi mào cũng cảm thấy hoảng sợ. Một trong số những quan toà đã theo vụ này ngay từ đầu, Dudley Bradstreet, quyết định bỏ cuộc. Dĩ nhiên, ông cũng trở thành kẻ tình nghi và buộc phải cùng gia đình chạy trốn. Nhưng đã có những nghi ngờ tại sao lại có quá nhiều người đáng kính bị kết tội đến vậy. Một bộ phận dân cư hiểu biết của thành phố bắt đầu những nỗ lực kết thúc cuộc săn lùng phù thuỷ này. Dưới tác động từ nhiều phía, thống đốc Phips quyết định toà án không được công nhận những lời khai về bóng ma, về kiểm tra tiếp xúc và sự kết tội phải dựa trên những chứng cứ rõ ràng và thuyết phục. Kể từ đó, không ai bị kết tội nữa. Mùa xuân 1693, 168 người được trả lại tự do, nhưng vài người đã chết do những ngược đãi trong nhà tù. Năm 1710, nhiều vụ án được lật lại, và chỉ trong vòng 2 năm sau đó, nhiều gia đình được bồi thường. Rebecca Nurse và Giles Corey được xử lại trắng án.

14 năm sau thảm kịch, cô gái trẻ Ann Putnam thú nhận sự dối trá của mình. Một số quan toà công khai thú tội và xin lỗi. Một số thành viên bồi thẩm đoàn nói rằng họ “đã bị đánh lừa và nhầm lẫn một cách đáng buồn”. Nhiều nghiên cứu cho thấy rất có thể thời tiết thất thường năm 1692 đã khiến cho lúa mạch bị nhiễm độc, gây ra ảo giác, nghẹt thở, ngứa ngáy, cảm giác bị đụng chạm và các cơ thịt bị co rút. Bất chấp mọi lời xin lỗi hay phán đoán, thành phố Salem đã thấm quá nhiều máu của những người vô tội. Và thật dễ hiểu khi họ bị ám ảnh đến thế bởi lời nguyền huyền thoại của ông già Giles Corey, phù thuỷ duy nhất không chịu sự phán xử của toà.


Lời nguyền của “Người đàn ông thép”

Giles Corey là một chủ trại giàu có, ít học và ngoan đạo, sống cùng vợ Martha tại một nông trại phía Tây Nam làng Salem. Tháng 3/1692, Martha bị tố cáo sau khi công khai nghi ngờ tính chân thật trong những lời buộc tội của các cô gái. Giles Corey, chắc chắn về sự vô tội của vợ, chống lại những lời làm chứng, và đến lượt ông trở thành mục tiêu mới.

Sau 5 tháng bị giam cầm tại nhà tù Salem cùng vợ, nhìn thấy được kết cục tất yếu nếu tham gia vụ xét xử và hy vọng tránh cho gia sản vừa được chuyển nhượng cho hai người con rể sẽ không bị sung công, Corey từ chối tham gia phiên xử. Theo luật pháp thời đó, tất cả những ai từ chối tham gia xét xử sẽ bị đè bằng đá cho tới khi người đó hoặc chết, hoặc chấp nhận biện hộ. Corey là cư dân Massachusetts đầu tiên và duy nhất chấp nhận hình thức đó. Ngày 19/09, Corey được đưa đến Gallows, bị lột trần, đặt tấm ván mỏng trên ngực, và trước sự quan sát của mọi người, những tảng đá nặng được đặt lên tấm ván. Sau này, người ta kể lại rằng, tất cả những gì Corey nói là “nặng hơn nữa”, như muốn cái chết đến nhanh hơn. Nhưng đến tận trưa ngày thứ ba, người đàn ông 80 tuổi đó mới trút hơi thở cuối cùng. Vài giây trước khi chết, Giles Corey nhìn lên cảnh sát trưởng George Corwin, người được hưởng lợi nhiều nhất từ vụ án nhờ tịch thu gia sản và chia chác chiến lợi phẩm cũng như người chủ trì trong vụ xét xử Giles Corey, và nói: “Cảnh sát trưởng, ta nguyền rủa người và cả Salem!” Corey chết, nhưng cái chết đó đã đóng một vai trò quan trọng cho công cuộc ngăn chặn những vụ xét xử phù thuỷ. Corey chết, nhưng không ai có thể quên được sự ngoan cường và lòng dũng cảm của ông, cũng như không một nhân chứng nào có thể quên được lời nguyền khủng khiếp đó.

Kể từ George Corwin, mỗi cảnh sát trưởng, đặt trụ sở tại nhà tù Salem nhìn xuống nơi Corey đã bị giết, đều chết trong văn phòng hoặc bị thải hồi do những bệnh về tim hay máu. Không lâu sau vụ án, chính Corwin chết vì đau tim. Nhưng lời nguyền của Corey không chỉ nhằm vào Cảnh sát trưởng mà còn vào “toàn thể Salem”. Cứ mỗi lần Salem phải chịu một thảm kịch nào đó, như trận hoả hoạn đã gần như phá huỷ toàn bộ thị trấn, người ta đều nhớ lại rằng nó đã xảy ra không lâu sau khi có người khẳng định đã nhìn thấy bóng ma của Giles Corey. Liệu đó chỉ là sự ngẫu nhiên hay cho đến tận ngày nay, lời nguyền đó có thể vẫn còn linh nghiệm?

[ADAM R. JONES PHOTO]


Salem Witch Museum, from Salem Common


[ADAM R. JONES PHOTO]


House of Seven Gables, looking north


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét